7/22 Bauxite Việt Nam
22.07.2011 Leave a comment
|
Trang web mới tại WordPress
22.07.2011 Leave a comment
|
22.07.2011 Leave a comment
|
22.07.2011 Leave a comment
|
22.07.2011 Leave a comment
Là một người sành điệu trong nghệ thuật ngoại giao tế nhị, Henry Kissinger tỏ ra rất khâm phục Trung Quốc (TQ) về nghệ thuật này. Tác phẩm mới của ông, được viết dưới dạng một cuốn lịch sử ngoại giao TQ, vẽ ra những khúc mắc chiến lược của TQ kể từ ngày thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1949, trích dẫn khá nhiều các cuộc hội đàm của ông với một số lãnh đạo TQ. Nhưng thật ra, cuốn Bàn về Trung Quốc (On China) của Kissinger chẳng phải là một cuốn lịch sử mà cũng chẳng phải là một hồi ký.
22.07.2011 Leave a comment
Nước Mỹ mấy tuần qua bắt đầu bằng một tin về cậu bé 7 tuổi bang Utah dùng xe hơi của bố mẹ lái một đoạn đường khá dài. Hai “lãnh đạo” mải làm gì đó, “nhân dân” thấy xe nổ máy liền lái ra phố chơi. ‘ Tay lái khá vững, dù cậu phạm […]
22.07.2011 Leave a comment
Phạm Tuyên
Theo: Tiền Phong
–
(TTHN) – Loạt bài này tôi sẽ hướng dẫn bạn đọc nhìn ra những triệu chứng của suy thoái hay bắt đầu đi vào suy thoái.
Từ hồi bài VN sẽ đi vào suy thoái quý 4, 2011 , Biên Tập Viên ở VN chỉ cần làm phóng sự là thấy nhan nhản khắp nơi những điều tôi nói trong bài viết đó ngày 05.07.2011 như bài viết này “Nhiều doanh nghiệp thép sẽ phá sản”.
Như tôi viết ở mấy bài trước, đầu tiên là vì lạm phát cao (do bất tài, tham nhũng của tập đoàn, ăn hại đái nát ) mà phải tăng lãi suất (đầu tháng 02.2011) để kỉm lạm phát. Hậu quả của 5 tháng lãi suất là sức mua của người dân yếu đi trong khi lạm phát vẫn còn trớn hướng tới (với Nguyễn tấn Dũng bơm 70 ngàn tỉ để cứu vây cánh, tay chân bên BĐS và TTCK càng làm lạm phát quay trở lại nhanh vì thông tin này tôi và các báo lề trái, lề phải đều lan tỏa trong dân gian rất nhanh, vì vậy tăng giá là điều không tránh khỏi vì tội tình gì thương lái thịt heo, nhà chăn nuôi (mày dành giựt tiền bơm ra thì tao cũng đang đói đây) phải hy sinh cho tay chân Nguyễn Tấn Dũng ở BĐS và TTCK).
Vì nếu ngày mai, Nguyễn tấn Dũng chỉ thị xuống lãi suất còn 8% thì 12 tháng sau, lạm phát sẽ là 50 hay 100%, kiềm chế lạm phát này sẽ là 10 năm và thịt heo sẽ là 400 ngàn/kg thay vì 160 ngàn/kg như bây giờ (chuyện thịt heo thì tôi quá rành)…Người nghèo lương 2 triệu/tháng thì sao ??? In thêm tiền àh ?? thì như Zimbabwe và sụp rất nhanh, sẽ đi về hướng bao cấp, ăn bo bo và tem phiếu như 1975 và sau đó…..Người dân VN có sẵn sàng ăn bo bo hay sẵn sàng lật đảng cộng sản ??? Một sự chọn lựa rất dễ mà rất khó.
Tôi để quyền chọn lựa này cho dân tộc tôi vì khi CS không còn, sẽ có rất nhiều chuyên gia người Việt hải ngoại với tâm và tầm sẽ về VN và nếu chánh phủ hậu công sản như tôi nghĩ là hoàn toàn không tham nhũng thì Tây phương sẽ viện trợ ngay 40 tỉ usd như họ đang viện trợ Ai cập sau khi lật đổ chế độ tham nhũng và độc tài Mulbarak (lần đầu tiên trong báo cáo nhân quyền tháng 04.2011 Mỹ kêu đích dang đảng cộng sản là độc tài và tham nhũng, chính vì vậy nên từ ngày 14.02.2011 đến bây giờ Mỹ không thèm cử Đại sứ qua VN nữa). Ai cập có 80 triệu dân, ngang ngữa với VN 86 triệu dân.
Dĩ nhiên lạm phát quay trở lại ngay khi có dòng tiền chảy vào. Như tôi đã nói vào đầu tháng 7, lạm phát sẽ trở lại và trở lại cao hơn và lâu hơn. Điều này có nghĩa là lãi suất sẽ phải cao và kéo dài hơn, khoảng ít nhất 18 tháng, TTCK và BĐS dĩ nhiên là không chờ lâu như thế, những người ôm cổ phiếu theo tài chính đòn bẩy là phải xả hàng thôi vì không có ma nào dại mà thọc tay vào (vì tôi đã khuyên mọi người như thế).
Còn BĐS thì Nguyen Tan Dũng dự định cứu bồ nhóm tay chân lợi ích này lại bị “gậy ông đập lưng ông” rằng mặc dầu thanh khoản có, tiền nhà băng dồi dào nhưng viễn ảnh hạ lãi suất là 18 đến 24 tháng nên không ai dám mua BĐS (có lẻ vì đọc bài và nghe theo lời khuyên của tôi về ứng phó với suy thoái tại trang này, đánh CXN sẽ tìm thấy).
Và dĩ nhiên suy thoái sẽ tiến đến vào đầu quý 4 (tôi đã thấy rất nhiều dấu hiệu tương tự như 5 lần suy thoái mà tôi thấy ở Úc rồi, tôi sẽ đưa bằng chứng lần lượt, hãy đón đọc những bài của tôi, bạn sẽ học được rất nhiều để nhìn ra suy thoái). Suy thoái sẽ kéo dài 18 tháng tới 24 tháng và hy vọng là Đảng cộng sản sẽ sụp vì chính phủ mới sẽ dùng tài năng, tâm và tầm dự báo hữu hiệu mà hướng nền kinh tế này thoát ra khỏi suy thoái nhanh chóng, xin đừng hỏi tôi bằng cách nào, hỏi tôi khi tôi sắp về VN nhận chức mới, lúc đó tôi sẽ trả lời. Một thầy thuốc biết chẩn bệnh và có đủ tiền mua thuốc thì bệnh nhân sẽ khỏi, hãy đọc những dự báo của tôi 3 năm về trước tại đây.
Lỗi của ai vậy ??? Lỗi ban đầu có lạm phát là do bất tài, tham nhũng và ăn hại đái nát. Khi biết lạm phát cao, nghị quyết 11 kìm hãm lạm phát nghe xôm lắm, mới được từ tháng 2 đến tháng 5 là nhóm lợi ích, phe cánh đại gia bất động sản và chứng khoán than ầm lên, NHNN bơm 70 ngàn tỉ qua tái cấp vốn, lạm phát trở lại ngay sau khi giảm mức tăng tháng 6.
Hậu quả là một lần nữa, NTD nới lõng chính sách tiền tệ vì lợi ích nhóm thay vì vững tay chèo siết chặt để lạm phát giảm nhanh cho 86 triệu dân tộc của tôi. Suy thoái năm 1981 của Úc, giảm lạm phát từ 12% còn 3% cần 18 đến 24 tháng. vậy thì suy thoái đầu quý 4 (đã có rất nhiều tín hiệu cho thấy suy thoái đã bắt đầu) sẽ ít nhất 18 tháng, sau 18 tháng nếu lạm phát xuống còn 10% là chúng ta nên mừng, còn nếu muốn xuống 2 hay 3% như những quốc gia hội nhập của chúng ta thì 4 hay 5 năm là chuyện thường. Hãy tưởng tượng sống trong cảnh bảo giá này 4 hay 5 năm.
Dân nghèo VN không có bè phái, tay chân của ĐCS nên phải chịu tất cả thiệt thòi chống lại lạm phát bằng chính nỗ lực của họ, còn đại gia địa ốc thì sẽ được cứu vớt bởi Nguyễn tấn Dũng và đồng bọn.
TIME FOR A CHANGE
Châu Xuân Nguyễn
———————
14:00 | 19/07/2011
Đầu tư theo phong trào:
Nhiều doanh nghiệp thép sẽ phá sản
TP – Hiện một số doanh nghiệp ngành thép đang phải trả giá do phớt lờ những lời cảnh báo từ trước đó.
Nhiều doanh nghiệp thép đang phải trả giá. Ảnh: Hồng Vĩnh. |
Tồn kho 500.000 tấn
Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam Phạm Chí Cường cho biết, sau khi có Nghị quyết 11, lượng thép tiêu thụ giảm rõ rệt nhất là vào tháng 4, 5 và 6. Hàng loạt doanh nghiệp ngành thép đang điêu đứng vì hàng tồn kho cao và kinh doanh khó khăn. Hầu hết các nhà máy thép hiện nay chỉ chạy khoảng 60% công suất thiết kế. Đến nay, lượng thép tồn kho của các doanh nghiệp vào khoảng gần 500.000 tấn.
Với mỗi tấn thép tồn kho, mỗi tháng, doanh nghiệp phải trả lãi ngân hàng từ 300.000 – 400.000 nghìn đồng. Như vậy, chỉ riêng với số thép tồn kho này, các doanh nghiệp thép sẽ phải trả lãi cho ngân hàng khoảng gần 150 tỷ đồng/tháng.
Theo ông Đỗ Duy Thái, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Thép Pomina (POM), lợi nhuận đạt được chủ yếu đến từ việc kinh doanh trong các tháng đầu năm. Trong 2 tháng trở lại đây, do nhu cầu thép sụt giảm mạnh nên công ty phải cắt giảm sản lượng còn 50% công suất nhà máy.
Tình hình kinh doanh khó khăn cũng được Công ty cổ phần tập đoàn thép Tiến Lên (mã chứng khoán TLC) giải trình khá rõ trong báo cáo gửi Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Theo đó, chỉ trong quý I-2011, chi phí tài chính của TLC lên tới trên 68,3 tỷ đồng, tăng hơn 40 tỷ so với cùng kỳ năm trước.
Nợ / tổng tài sản khá lớn
Cũng theo ông Cường và một số chuyên gia ngành thép, đây là thời điểm các doanh nghiệp nhỏ phải trả giá cho việc đầu tư không bài bản, đầu tư theo phong trào, phớt lờ các cảnh báo của cơ quan chức năng cách đây một vài năm.
Thống kê cho thấy, có tới gần 30% doanh nghiệp ngành thép đang sử dụng công nghệ lạc hậu, khoảng hơn 40% doanh nghiệp sử dụng công nghệ ở mức trung bình, chỉ có khoảng 20% doanh nghiệp sử dụng công nghệ tiên tiến. Điều đáng nói, các doanh nghiệp sản xuất thép đầu tư vào các loại công nghệ cũ này tập trung khá nhiều ở các tỉnh Quảng Ninh, Bắc Kạn, Cao Bằng. Cá biệt ở Thanh Hóa có doanh nghiệp đầu tư lò sản xuất thép chỉ ở mức 50 m3.
Đại diện Hiệp hội Thép dự báo từ năm 2012 có doanh nghiệp ngành thép sẽ phải trả giá, thậm chí là phá sản. “Trong thời gian tới mức thuế suất chung của khu vực sẽ về bằng 0. Khi đó những doanh nghiệp ngốn nhiều năng lượng, nguyên nhiên vật liệu, chất lượng sản phẩm không tốt thì sẽ phải đóng cửa.
Tôi biết hiện có một doanh nghiệp sản xuất thép tại Hải Phòng do vay vốn ngân hàng quá nhiều, hoạt động kinh doanh không hiệu quả nên bị ngân hàng kiểm soát hết vốn. Toàn bộ hoạt động mua, bán phôi, thép của doanh nghiệp này đang bị ngân hàng kiểm soát rất chặt” – Ông Cường cho biết.
Một chuyên gia ngành thép khác cũng cho biết, do đặc thù của ngành là nhu cầu vốn lưu động lớn nên hiện các doanh nghiệp trong ngành thường duy trì tỷ lệ nợ/tổng tài sản ở mức khá lớn (từ 51% đến 79%). Với thị trường cung vượt cầu, chỉ tính riêng phải xử lý việc tiết giảm chi phí đội do sử dụng công nghệ lạc hậu (chủ yếu nhập từ Trung Quốc) cũng đủ khiến các doanh nghiệp phải đau đầu.
Phạm Tuyên
22.07.2011 Leave a comment
RFA
Ông Phạm Quang Vinh, trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam và Thứ trưởng Ngoại giao của Trung Quốc Lưu Chấn Dân. AFP |
Vòng thảo luận cấp cao về tình hình Biển Nam Trung Hoa, mà Việt Nam gọi tên là Biển Đông, diễn ra tại Bali, Indonesia sáng nay với sự hiện diện của viên chức đại biểu ASEAN và Trung Quốc.
Theo bản tin của AFP, các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam, và Trung Quốc đều tỏ ý tin tưởng cuộc họp đạt nhiều tiến bộ đáng kể thì giới ngoại giao tỏ ra dè dặt khi bình luận về điều này.
Sự hợp tác hiếm thấy của Trung Quốc
Đại diện Việt Nam tại cuộc họp, ông Phạm Quang Vinh, trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao, điều hợp viên cuộc họp cùng đại diện nước chủ nhà Indonesia. Đại diện phía Trung Quốc là Thứ trưởng Ngoại giao Lưu Chấn Dân.
Theo lời ông Phạm Quang Vinh, cuộc họp mang lại kết quả tốt trong tinh thần xây dựng và đối thoại hữu nghị.
Điểm đáng nói tại cuộc họp ở Bali là sau gần một thập niên với những cuộc thảo luận kéo dài, lần này ASEAN và Trung Quốc loan báo đồng ý về một văn bản hướng dẫn thực hiện những hoạt động và dự án hỗn hợp trên vùng biển và những vùng đảo mà các bên tranh chấp chủ quyền lâu nay.
Mặc dù đạt thoả thuận sơ bộ về văn bản hướng mà Trung Quốc gọi là sự hợp tác hiếm thấy, ASEAN và Trung Quốc vẫn chưa nhất trí đạt tới một sự đồng thuận rõ ràng về việc quốc gia nào nắm chủ quyền trên khu vực biển được gọi là lãnh hải của mình.
Một mặt văn bản đồng thuận được công bố trong tinh thần lạc quan, mặt khác thì các nhà ngoại giao, với sự thận trọng cố hữu, cho rằng vẫn còn nhiều điểm dị biệt liên quan đến Biển Đông chưa được giải quyết rốt ráo, điển hình như quan điểm của Trung Quốc nhất mực cho rằng Bắc Kinh có toàn quyền trên vùng biển này.
Các vùng biển theo luật biển quốc tế. RFA file
Mặc dù đạt thoả thuận sơ bộ về văn bản hướng dẫn mà Trung Quốc gọi là sự hợp tác hiếm thấy, ASEAN và Trung Quốc vẫn chưa nhất trí đạt tới một sự đồng thuận rõ ràng về việc quốc gia nào nắm chủ quyền trên khu vực biển được gọi là lãnh hải của mình.
Ngoại trưởng Philippines, ông Albert Del Rosario, tuyên bố Philippines sẽ nhờ Liên Hiệp Quốc can thiệp để phân định cụ thể và dứt khoát chủ quyền từng quốc gia trên vùng Biển Đông.
Ông nhấn mạnh Philippines bắt buộc phải chọn lựa cách phân xử dựa căn bản trên Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển UNCLOS vì điều này không cần phải có sự chấp thuận của phía tranh chấp.
Được biết vào ngày mai dự thảo văn bản hướng dẫn qui tắc ứng xử trên Biển Đông sẽ được trình và phê duyệt lần chót giữa các quan chức ngoại giao các quốc gia ASEAN cũng như Trung Quốc.
Philippines bắt buộc phải chọn lựa cách phân xử dựa căn bản trên Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển UNCLOS vì điều này không cần phải có sự chấp thuận của phía tranh chấp.
Ông Albert Del Rosario
Các nước Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Brunei, Việt Nam và Đài Loan đều khẳng định vùng chủ quyền của mình trên Biển Đông, trong lúc Trung Quốc vẫn lên tiếng giành phần chủ quyền rộng lớn nhất trên khu vực biển với các thềm lục địa chồng lấn lên nhau.
Lên tiếng bên lề hội nghị cấp cao ở Bali, Thứ trưởng Ngoại giao Lưu Chấn Dân, dẫn đầu phái đoàn Trung Quốc, nói rằng văn bản hướng dẫn qui tắc ứng xử trên Biển Đông, gọi tắt là DOC, đạt được tại cuộc họp là một tài liệu quan trọng chứng tỏ tinh thần hợp tác giữa Trung Quốc với ASEAN.
Tình hình phức tạp trên Biển Đông thời gian gần đây, phát xuất từ những hành động lấn lướt ngang nhiên của Trung Quốc, vẫn là trung tâm điểm mối quan ngại của ASEAN và thế giới. Đây cũng là trung tâm điểm của cuộc họp Biển Đông ở Bali.
Nguồn: rfa.org
–––––––––––––––––––––––––––
Việt-Long- RFA
Sự kiện quốc tế được công luận thế giới, nhất là người Việt Nam, chú ý nhất trong tuần này phải là diễn tiến và kết quả vừa đạt được nhân Hội nghị các Bộ trưởng Ngoại giao khối ASEAN nhóm họp từ hôm thứ ba.
Các viên chức dự Hội nghị ASEAN+3 tại Bali. AFP photo
Một thành tựu biểu kiến
Trước hết là diễn tiến của Hội nghị của ASEAN khai mạc tại Bali, Indonesia, ngày hôm qua, nghị trình bao hàm vụ tranh chấp lãnh hải ở Biển Đông và tình hình an ninh nơi đó. Nước Chủ tịch luân phiên của ASEAN năm nay là Indonesia chủ tọa hội nghị. Tổng thống Susilo Bambang Yudhodyono trong diễn văn khai mạc đã phê bình ASEAN quá chậm chạp trong việc hình thành một văn bản hướng dẫn thi hành bản tuyên bố về ứng xử trên Biển Đông, liên quan đến khối ASEAN và Trung Quốc. Tình trạng trì trệ này đã được nói đến từ khá lâu, vì bản Tuyên bố về ứng xử đã được khối ASEAN cùng Trung Quốc ký kết từ năm 2002, tức là gần 10 năm trước, mà đến nay vẫn chưa có được bản hướng dẫn thi hành. Sang ngày hôm nay thì các viên chức ngoại giao của khối ASEAN và Trung Quốc, đã công bố đạt được kết quả khả quan hướng tới việc giải quyết mối tranh chấp, một kết quả mà nhiều người không thấy có gì đáng gọi là khả quan.
Tổng thư ký khối ASEAN Surin Pitsuwản gọi đó là một bước đột phá, trong khi Trưởng đoàn Việt Nam Phạm Quang Vinh cũng nói hai phía đã thảo luận và đối thoại với tính cách xây dựng và có hiệu quả mới đạt được thành tựu đó. Trung Quốc cao giọng hoan nghênh và ca ngợi ASEAN.
Nhưng coi đó là thành tựu thì cũng khó gọi là có ý nghĩa. Khối ASEAN nóng lòng nhắm tới một bản Quy tắc về ứng xử trên Biển Đông, là một bước tiến cụ thể so với bản tuyên bố về ứng xử đã được các bên ký kết.
Bản quy tắc gọi là Code of Conduct, tức COC, có tính cách ràng buộc về pháp lý, trong khi bản tuyên bố, hay Declaration of Conduct, tức là DOC, chỉ là lời kêu gọi hành động ôn hòa thôi, không có sự ràng buộc nào hết. Và hôm nay ASEAN và Trung Quốc chỉ đồng thuận về một văn bản gọi là Dự thảo các biện pháp hướng dẫn hành động hợp tác trên biển Đông, tức là Văn bản hướng dẫn thi hành bản Tuyên bố về ứng xử. Như vậy là chưa vượt qua khỏi bản Tuyên bố đó, nói gì tới Bản Quy tắc về ứng xử.
Quả thật thế. Trong chỗ riêng tư, theo như các hãng thông tấn quốc tế tường trình, thì các quan chức ngoại giao của một số nước ASEAN, không muốn nêu tên, cho biết họ đã phải sửa chữa cả cái bản hướng dẫn này cho nhẹ bớt đối với Trung Quốc, để có thể đạt đồng thuận như vậy. Cho nên Trung Quốc tất nhiên phải hoan nghênh sự trì trệ tiếp tục đó, vì có lợi cho Trung Quốc. Trưởng đoàn của Trung Quốc, là phụ tá Bộ trưởng Ngoại giao Lưu Chấn Dân, nói kết quả này là một bước ngoặt quan trọng trong công cuộc hợp tác giữa Trung Quốc với các nước ASEAN.
Bản đồ quần đảo Trường Sa – Wikipedia photo
Một sự kiện nữa có thể nói lên sự vô nghĩa của cái gọi là thành tựu đó, là việc Ngoại trưởng Philippines Alberto del Rosario tuyên bố thẳng thừng rằng “Văn bản hướng dẫn thực hiện bản tuyên bố về ứng xử trên Biển Đông” cũng chỉ là “vật không có răng”, chẳng được việc gì. Ông nói: ASEAN muốn tiến tới bản Quy tắc về ứng xử có sự ràng buộc pháp lý, nhưng Trung Quốc thì chỉ đòi sở hữu toàn bộ Biển Đông mà thôi. Và cùng ngày, các nhà lập pháp Philippines vẫn bay đi thăm đảo Pagasa, là tên Philippines đặt cho nơi mà Việt Nam vẫn gọi là bãi Thị Tứ từ xưa đến nay. Philippines tỏ ra thách thức lời phản đối của Trung Quốc, khi Bắc Kinh coi đó là sự xâm phạm chủ quyền của họ ở Trường Sa.
Bốn dân biểu Philippines được các thủy thủ tàu ngầm, tàu chiến của Philippines và lực lượng đồn trú vài chục người trên đảo tiếp đón trong cuộc thăm viếng một ngày. Thị Tứ hay Thitu Aba là nơi quân đội Philippines phòng thủ kiên cố nhất, có đường bay kéo dài ra bãi biển.
Vị Ngoại trưởng Philippines cho biết thêm là sau khi Bắc Kinh từ chối cùng Philippines ra Tòa quốc tế về Luật biển, Manila phải nhờ Liên Hiệp Quốc phân xử giữa hai nước vấn đề nước nào có chủ quyền ở phần nào trên Biển Đông.
Nhưng vẫn là xoay chiều
Có dư luận trên trường quốc tế cho đó là một bước lùi trong lập trường giải quyết đa phương của Philippines. Tuy nhiên xét kỹ thì Philippines không lùi bước. Vì không thể đạt được kết quả trong đề nghị cùng ra Tòa quốc tế nên Manila liền đưa ra biện pháp thay thế như vậy. Đó là biện pháp thứ nhì nằm trong quy định của Luật biển Liên Hiệp Quốc UNCLOS. Giới quan sát có thể nói Philippines đã chuyển từ giải pháp đa phương sang giải pháp song phương theo ý Trung Quốc, nhưng thật ra biện pháp thay thế này cũng có sự liên can của Liên Hiệp Quốc, hẳn nhiên là Tòa Luật biển phải can dự, thì cũng gần như việc cùng nhau ra tòa UNCLOS mà thôi. Xét như vậy, người ta thấy Philippines có lập trường cứng rắn và rõ ràng hơn, lại năng động hơn Việt Nam là nước bị áp lực và lấn áp nhiều hơn.
Thêm nữa, nói tới song phương với đa phương, có lẽ người ta phải nhìn thấy là Hội nghị Diễn đàn An ninh Khu vực ASEAN, gọi tắt là ARF, sắp tới tại Indonesia, sẽ là một sự xác định rằng khối ASEAN quay lưng với giải pháp song phương giữa từng nước với Trung Quốc như Bắc Kinh đòi hỏi và áp lực, và rõ ràng ASEAN đã trở thành một khối đối ứng với Trung Quốc ở bên kia cán cân.
Trên chiều hướng đó, diễn đàn ARF kỳ thứ 18 này sẽ mang chủ đề Biển Đông, không phải như kỳ thứ 17 tại Việt Nam là lúc chỉ có một mình Philippines nói ra. Việt Nam là nước chủ nhà và Chủ tịch luân phiên của ASEAN năm ngoái đã không nói thẳng tới vấn đề Biển Đông, trong khi Hoa Kỳ thì lại mạnh mẽ xác định quyền lợi của họ trong việc tự do hàng hải ở Biển Đông. Năm nay thì ngay từ những phiên họp của Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao ASEAN ta cũng thấy khối này đã hành xử như một khối, một pháp nhân, đối trọng với Trung Quốc.
Và nếu nhìn trên khía cạnh kết hợp cho vững chắc để đối phó với Bắc Kinh hay chia rẽ để Trung Quốc bẻ đũa từng chiếc, thì việc đạt đến thỏa thuận mới đây về dự thảo “văn bản hướng dẫn thi hành bản tuyên bố ứng xử trên Biển Đông” đã là một thành tựu về sự đoàn kết của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, dù rằng về mặt đối sách với Trung Quốc thì thành tựu đó chưa có bao nhiêu ý nghĩa. Tuy nhiên có đạt được bước đầu khiêm tốn thì mới có hy vọng về sau.
V. – L.
Nguồn: rfa.org
22.07.2011 Leave a comment
Gia Minh, Biên tập viên RFA
Vào ngày 21 tháng 7, Quốc hội Khóa 13 khai mạc kỳ họp đầu tiên. Chừng 10 hôm trước, các nhân sĩ trí thức Việt Nam ký một bản Kiến nghị gửi Quốc hội, và Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, về ‘bảo vệ và phát triển đất nước trong tình hình hiện nay’.
Các bậc nhân sĩ trí thức biểu tình ôn hòa đòi công lý và hòa bình trên biển Đông. Source ABS
Vậy phản hồi đối với bản kiến nghị đó ra sao từ phía Đại biểu quốc hội cũng như dư luận, và kỳ vọng đối với kỳ họp sắp tới là gì?
Biển Đông sẽ được đưa ra trong kỳ họp đầu tiên?
Bản kiến nghị mới nhất của giới nhân sĩ trí thức ký ngày 10 tháng 7 vừa qua, ngoài địa chỉ là Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam, còn được công khai trên nhiều trang mạng để kêu gọi mọi người cùng tham gia ký tên vào.
Qua các phương tiện như Internet, Facebook, Twitter…, bản Kiến nghị được khá nhiều người biết đến. Nhận định của những người từng đọc được bản Kiến nghị đó đều cho rằng những vấn đề nêu ra nói lên được quan tâm của nhiều người.
Một cựu Đại biểu quốc hội là ông Nguyễn Ngọc Trân cũng thừa nhận có đọc được kiến nghị đó:
Tôi cũng đọc được thông tin đó. Anh cũng biết là Quốc hội sẽ có một phiên để nghe trình bày về vấn đề Biển Đông.
Tôi nghĩ kiến nghị của người dân cần được coi trọng vì nó liên quan đến những vấn đề trọng đại. Có thể có cách nhìn khác nhau về nhiều vấn đề giữa chính quyền và người dân; nhưng càng minh bạch làm cho người dân thông suốt, chỉ có lợi cho ‘cái chung’ mà thôi.
Đại biểu Dương Trung Quốc
Ông Dương Trung Quốc, một Đại biểu quốc hội khóa cũ và nay tiếp tục tham gia khóa 13, nói lên nhận xét của ông đối với bản kiến nghị vừa rồi:
Tôi có biết Kiến nghị đó trên mạng; có nhiều mạng đăng tải rồi. Tôi nghĩ kiến nghị của người dân cần được coi trọng vì nó liên quan đến những vấn đề trọng đại. Có thể có cách nhìn khác nhau về nhiều vấn đề giữa chính quyền và người dân; nhưng càng minh bạch làm cho người dân thông suốt, chỉ có lợi cho ‘cái chung’ mà thôi. Chương trình nghị sự của kỳ họp Quốc hội này theo tôi được biết ngoài những vấn đề của một kỳ họp đầu tiên của nhiệm kỳ, cũng có thông báo đặt vấn đề về những vấn đề liên quan đến Biển Đông, qua đó có thể thông báo những thông tin mà người dân cần được biết.
Chữ ký các nhân sĩ trên bản Kiến nghị gởi Quốc hội. RFA screen capture
Bản Kiến nghị ‘về bảo vệ và phát triển đất nước trong tình hình hiện nay’ nêu rõ thực trạng đất nước hiện nay trước hiểm họa xâm lược của phía Trung Quốc, đồng thời chỉ rõ những khó khăn và mối nguy lớn trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa- xã hội; thậm chí còn chỉ ra những bất cập của chế độ chính trị gây cản trở cho sự phát triển đất nước…
tôi nghĩ các cơ quan có trách nhiệm của Nhà nước có thể có những thông tin đầy đủ để chia sẻ; có những vấn đề có thể đáp ứng được ngay; có những vấn đề Nhà nước thấy cần có sự chia sẻ với người dân. Còn vấn đề cụ thể phải xem kết quả thế nào đã…
Đại biểu Dương Trung Quốc
Trước tình trạng đáng ngại đó, những vị nhân sĩ trí thức đưa ra năm biện pháp cần thực hiện đó là phải minh bạch cho toàn dân biết thực trạng quan hệ Việt Nam- Trung Quốc, trình bày rõ tình trạng của đất nước hiện nay, thực hiện đầy đủ những quyền tự do, dân chủ của người dân được qui định trong hiến pháp, kêu gọi hòa giải, hòa hợp đoàn kết dân tộc, và Đảng Cộng sản cầm quyền phải đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, giương cao ngọn cờ dân tộc, và dân chủ để đẩy mạnh cải cách chính trị, giải phóng mọi tiềm năng của đất nước…
Về việc thực thi những biện pháp mà giới nhân sĩ trí thức kiến nghị với Quốc hội, thì Đại biểu Dương Trung Quốc cho biết:
Những vấn đề nêu ra theo tôi nghĩ các cơ quan có trách nhiệm của Nhà nước có thể có những thông tin đầy đủ để chia sẻ; có những vấn đề có thể đáp ứng được ngay; có những vấn đề Nhà nước thấy cần có sự chia sẻ với người dân. Còn vấn đề cụ thể phải xem kết quả thế nào đã…
Văn bản pháp luật không minh bạch, thiếu cụ thể
Ngoài ra ông Dương Trung Quốc cũng nói đến việc chống tham nhũng và thực hiện công tác làm luật của Quốc hội khóa mới mà ông tham gia:
Tôi nghĩ vấn đề đó là ‘thường xuyên, thường trực’, và đó cũng là vấn đề không phải chỉ riêng của Việt Nam. Đó là một quá trình đấu tranh lâu dài; và để có cơ chế, khả năng giám sát chống lại tình trạng tham nhũng hiện tồn tại. Cũng như những lần trước, các ý kiến sẽ nêu lên, đề cập đến những vấn đề liên quan luật pháp, bộ máy hành pháp, và đặc biệt khả năng giám sát của các cơ quan dân cử.
Làm luật có hai vấn đề: nội dung các văn bản pháp luật rõ ràng vì hệ thống pháp luật Việt Nam chưa hoàn thiện, và chất lượng soạn thảo chưa cao nên ‘đời sống của các luật’ không lâu. Ví dụ một vấn đề khá bức xúc trong các kỳ họp liên quan đến Luật biển, quá trình chuẩn bị kéo quá dài.
Trong phiên họp thường vụ lần rồi theo tôi biết cũng sẽ có đưa Luật biển để thông qua. Còn phương thức làm luật có vấn đề liên quan chất lượng. Đây là quá trình lâu dài. Trong quá trình tham gia Quốc hội tôi thấy có thay đổi, dù chưa đáp ứng nhu cầu chung. Cần quá trình. Quốc hội nào cũng đều mong muốn luật được làm tốt hơn, năng lực tốt hơn liên quan đến chất lượng, kỹ năng của các Đại biểu, qui trình thực hiện. Ngoài giữa việc làm luật và thi hành luật còn có khoảng cách.
Nhà văn Phạm Xuân Nguyên (trái) và Tiến sĩ Nguyễn Quang A ngồi trong quán cà phê trên đường Điện Biên Phủ. Source blog CHHV
các văn bản pháp luật của chúng ta thiếu ổn định, các luật còn chưa đủ cụ thể, nhiều điều khoản còn nhiều cách diễn giải khác nhau, nhiều nội dung chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn nhau. Sự thiếu cụ thể của luật và có nhiều cách diễn giải đã tạo ra trên thực tế sự thiếu thống nhất giữa các ngành,… gây ra nhiều lúng túng khi xử lý
Đại biểu Nguyễn Ngọc Trân
Đại biểu Nguyễn Ngọc Trân, trong bài viết đăng trên Tuần Việt Nam hôm ngày 15 tháng 7 viết, xin trích nguyên văn:
“Các cuộc giám sát của Quốc hội các khóa trước cho thấy điểm yếu nổi bật và chung nhất là các văn bản pháp luật của chúng ta thiếu ổn định, các luật còn chưa đủ cụ thể, nhiều điều khoản còn nhiều cách diễn giải khác nhau, nhiều nội dung chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn nhau. Sự thiếu cụ thể của luật và có nhiều cách diễn giải đã tạo ra trên thực tế sự thiếu thống nhất giữa các ngành, các địa phương, là khe hở đồng thời gây ra nhiều lúng túng khi xử lý”.
Trong khi đó một người dân tỏ ra không mấy tin tưởng vào kỳ họp Quốc hội sắp tới với những lý do sau:
Dân bây giờ nhận thức được rằng bầu cử là một trò hề. Thú thật chúng tôi muốn tin vào Nhà nước, lãnh đạo, những người còn có tâm huyết với đất nước. Nhưng sự thật trong cuộc sống hằng ngày đặt chúng tôi vào trạng thái nghi ngờ.
Tôi có theo dõi những buổi họp Quốc hội trước đây; nhưng những nhân vật ‘dám nói’ sau đó họ đi đâu mất. Hãy nhìn trường hợp của luật sư Cù Huy Hà Vũ, Lê Quốc Quân… khi họ muốn ứng cử vào Quốc hội để có tiếng nói đại diện cho dân, thì Nhà nước này tìm mọi cách để không cho họ nói…
Người dân
Tôi có theo dõi những buổi họp Quốc hội trước đây; nhưng những nhân vật ‘dám nói’ sau đó họ đi đâu mất. Hãy nhìn trường hợp của luật sư Cù Huy Hà Vũ, Lê Quốc Quân… khi họ muốn ứng cử vào Quốc hội để có tiếng nói đại diện cho dân, thì Nhà nước này tìm mọi cách để không cho họ nói…
Tác giả Đào Tuấn, trên trang blog Dân Luận có bài viết với tựa ‘Lá gan nghị sĩ’, trong đó ông nêu ra một số câu hỏi lớn hiện nay tại Việt Nam là tình hình lạm phát và Biển Đông, mà ông cho rằng tùy thuộc vào ‘lá gan’ của các vị Đại biểu Quốc hội có dám thẳng thắn nêu ra để mổ xẻ hay không.
Quốc hội khóa 12 đã có nhiều tiếng nói được cho là khẳng khái tại diễn đàn như Đại biểu Nguyễn Minh Thuyết, Lê Văn Cuông, Nguyễn Đình Xuân…; trong khóa này họ không còn tham gia nữa; liệu không biết Quốc hội khóa 13 sẽ lại vang lên nhiều tiếng nói đúng lòng dân như vừa qua hay không, đang là thắc mắc của nhiều người trước ngày khai mạc quốc hội khóa 13 này.
G.M.
Nguồn: rfa.org
22.07.2011 Leave a comment
Khách sạn Marina Bay Sands, mới xây tại Singapore, ảnh của tác giả |
Lá thư hè Singapore
Nguyễn Xuân Xanh
Tháng 7, 2011
Thưa các Anh Chị,
Đầu tháng 7 vừa qua tôi (và gia đình) vừa đi chơi ở Singapore một tuần, nhân con chúng tôi nghỉ hè. Đây là lần đến thăm Singapore sau hơn 10 năm. Chúng tôi được gặp các anh Vũ Minh Khương và Giáp Văn Dương tại nhà riêng trong một buổi cơm tối và trò chuyện thân mật. Những ngày còn lại cả gia đình đi “ta bà” để tham quan, đi đến rã cả chân. Singapore không mất đi vẻ thu hút mãnh liệt đối với tôi. Tôi xin ghi lại vài ấn tượng và suy nghĩ hời hợt gửi đến Anh Chị, và cũng như từ góc độ Singapore tìm hiểu xem tại sao TQ như thế mà VN không như thế, câu hỏi quan trọng mà các Anh Chị trên diễn đàn Humboldt đang thảo luận.
Chắc nhiều Anh Chị ít nhiều đã đến Singapore. Một người bạn tôi từ Canada bảo những năm đầu 80 anh ấy đến Singapore vì công việc, mỗi lần đến đó thì tâm hồn “tan nát” khi nghĩ đến hoàn cảnh Việt Nam. Singapore chỉ cách Sài gòn 1,45 giờ bay, giống như Hà Nội. Thế mà sao sự khác biệt lại kinh khủng thế?
Ai xây thành phố nhà nước này? Singapore có nhiều chủng tộc, chủ yếu Hoa, Malay và Ấn. Nhưng cả thành phố không hề có vẻ Châu Á chút nào, mà nó “Tây” một trăm phần trăm, trừ những khu Tàu, khu Ấn nhỏ truyền thống vẫn còn tiếp tục hoạt động.
Cái cảm giá đầu tiên là đường phố rất rộng, mật độ đường phố rất lớn, trong khi diện tích của đảo quốc rất nhỏ, chỉ 694 km2, xe cộ chạy liên tục không kẹt lúc nào (có lẽ cũng kẹt đôi chút vào những giờ cao điểm), rất thông thoáng, không hề nghe tiếng còi xe inh tai như ở VN.
Trong khi đó TP HCM có diện tích 2.095 km2, gấp hơn 3 lần Singapore, đường xá lại rất chật hẹp, mật độ đường lại quá nhỏ.
Ô tô ở Singapore chạy vù vù như mắc cửi, giống như trong roller coaster, rất nhanh, đến 80 dặm/ giờ trong trung tâm, 100 dặm [1 dặm = 1,6 km] ngoài trung tâm. Ai chưa quen tốc độ sẽ sợ hãi; nhưng một hồi rồi thấy mọi người đều lái rất đúng luật, chính xác và an toàn. Hệ thống đường giao thông của Singapore là 3D, trong khi hệ thống đường giao thông ở VN chỉ là 2D, hay bị tắc nghẽn nặng nề vào những giờ cao điểm.
Tôi cho ai thiết kế hệ thống đường giao thông của Singapore là rất thông minh, và không phải dễ thiết kế được hệ thống đường xá như thế. Hệ thống đường giao thông giống như hệ thống các mạch máu chằng chịt lan tỏa khắp nơi để đưa máu nhanh chóng đến tất các bộ phận cơ thể. Chưa nói đến hệ thống tàu điện ngầm MRT, hệ thống xe buýt của Singapore rất hữu dụng. Không có một hệ thống giao thông thông minh như thế, thì không thể có được thành phố hiện đại, trung tâm tài chính, thương mại. So với cơ sở hạ tầng của Singapore, thì cơ sở hạ tầng của Việt Nam quả là còn primitive [sơ khai].
Cảm giác thứ hai là toàn bộ thành phố đều được phủ xanh một cách rất thông minh và khoa học. Không có một tấc đất nào của Singapore mà không có sự chăm sóc của bàn tay con người; không có khái niệm “đất hoang” ở đây. Họ có rất nhiều chủng loại cây thích hợp cho thành phố, và họ trồng cây xanh nhiều tầng như rừng nhiệt đới, tạo nên mảng thiên nhiên dày đặc khắp nơi. Cây đẹp, tàn to tạo bóng mát, nhưng không quá cao gây nguy hiểm như các loại cây sao Pháp đã trồng lâu đời ở VN. Người ta có ngay cảm tưởng dễ chịu khi ra khỏi phi trường, rằng mình đang sống trong thành phố công viên tươi mát có bàn tay thiết kế và chăm bón tuyệt diệu của con người.
Phần lớn các nước châu Á không để ý đến cây xanh. Lý Quang Diệu ngay từ đầu đã có kế hoạch làm xanh cả đất nước như một chương trình lớn. Ông mời chuyên gia cây cỏ nước ngoài đến nghiên cứu thổ nhưỡng và biện pháp, gửi người đi tìm khắp những nơi có khí hậu gần giống Singapore để mang về những giống cây làm giàu cho thảm thực vật họ. 8000 giống lạ được mang về Singapore và 2000 trong đó đã sống được.
Singapore cũng giải quyết vấn đề ô nhiễm không khí rất tốt. Công viên chim, Bird Park, rất ấn tượng, được đặt ngay bên cạnh trung tâm công nghiệp lớn Jurong, nếu không xử lý khí thải thì mấy con chim kia chắc sẽ không sống được lâu.
Cuộc xanh hóa của Singapore đã được lãnh đạo các nước lân bang “bắt chước”: Mahathir xanh hóa Kuala Lumpur, Suharto Jakarta, Marcos Manila, Thanin Bangkok, tất cả vào những năm cuối 70.
Các công trình văn hóa ấn tượng của Singapore không chỉ là dành cho du khách để kiếm tiền, mà còn để giáo dục con người Singapore. Chẳng hạn như những công trình Công viên chim, Sở thú, Safari đêm, Vườn Bách thảo, Trung tâm khoa học (Science Center), Lịch sử Singapore (Images of Singapore, một công trình rất ấn tượng tại khu vui chơi Sentosa) đều có tính giáo dục rất cao… Học sinh và thầy cô VN muốn học hỏi về khoa học, cây cỏ, sinh vật, lịch sử chỉ có nước qua Singapore, chứ không nơi nào ở VN có những công trình giáo dục cụ thể và qui mô như thế. Đó là những công trình ấn tượng mà du khách có thể tham quan cả ngày, cả tuần. Thật thấy thương học sinh VN.
Vì sao với một đảo quốc nhỏ, khi tách khỏi Malaysia vào năm 1965 chỉ có 2 triệu dân (và hiện nay khoảng 3,2 triệu dân, cộng với người nước ngoài đến làm việc là 5,1 triệu), mà Ông Lý Quang Diệu đã làm nên lịch sử?
Thời thế tạo anh hùng, hay anh hùng tạo thời thế?
Tại sao trong khoảng 2 thập kỷ thôi, Ông LQD đã thay đổi hẳn những tật xấu cổ truyền của các dân tộc sống trên đó như khạc nhổ, xả rác, gây tiếng ồn, tính thô bạo trong cư xử, làm ăn gian dối… để biến họ thành những người văn minh, đối xử ân cần và lịch sự với nhau? Ông đã từng bước dẹp nạn taxi dù và tệ bán hàng rong trên hè phố, đặc biệt trước các cổng trường, tệ dắt bò đi ăn vào thành phố gây tai nạn chết người, tệ đốt pháo vào ngày tết cổ truyền TQ gây thiệt hại về con người và tài sản. Xây dựng cơ sở hạ tầng thành phố mới dễ hơn nhiều thay đổi thói quen cố hữu của người dân. Nhưng ông đã khôn ngoan làm được.
LQD kể lại tệ khạc nhổ của người TQ. Đó là trong chuyến thăm TQ đầu tiên của ông tại Đại sảnh đường nhân dân (Great Hall of the People) năm 1976 tại Bắc Kinh, ông nhận thấy có các ống nhổ được đặt tại các phòng họp nơi tiếp ông. Một số vị lãnh đạo đã sử dụng các ống nhổ này. Khi Đặng Tiểu Bình đến thăm Singapore năm 1978, phía Singapore đặt một ống nhổ màu trắng xanh thời nhà Minh cạnh ghế ông trong phòng họp cho ông sử dụng. Nhưng ông không sử dụng, có lẽ ông đã nhận ra rằng người Hoa ở Singapore đã không còn khạc nhổ nữa. Đến lần thăm tiếp của ông tại Bắc Kinh năm 1980, tức bốn năm sau, ông không còn thấy các ống nhổ đặt tại các phòng họp nữa. Vài năm sau ông tiếp một chính khách khác của TQ đặc trách kinh tế tại Singapore, LQD nhắc lại việc các lãnh đạo TQ không còn sử dụng ống nhổ nữa như một điều tốt. Nhưng vị khách này tiết lộ với ông, đó chỉ là hình thức thôi, chứ các vị lãnh đạo vẫn còn tiếp tục sử dụng ống nhổ trong phòng làm việc của họ!
Singapore vừa là trung tâm tài chánh, vừa là một điểm du lịch hấp dẫn (chưa nói đến các chức năng khác như giáo dục, công nghệ, cảng trung chuyển vùng). Người ta chờ đợi Singapore sắp tới sẽ trở thành trung tâm quản lý tài chánh lớn nhất thế giới vượt cả Thụy Sĩ. Với số dân khiêm tốn 3,2 triệu dân, Singapore có đến gần 12 triệu khách du lịch, gấp 4 lần số khách du lịch đến VN (Việt Nam dân số trên 85 triệu, có số khách du lịch chỉ khoảng 3 triệu). Người ta bảo rằng 4 (hay 5) người khách du lịch đủ nuôi sống 1 người Singapore.
Lý Quang Diệu, người sáng lập và nhà lãnh đạo Singapore
Ngay từ đầu lập quốc, Ông Lý Quang Diệu đã quyết tâm làm cho Singapore khác biệt các nước thế giới thứ ba một cách triệt để và nhanh chóng, và có tham vọng phải tiến lên thế giới thứ nhất.
“Một nhánh của chiến lược tôi là biến Singapore thành một oasis [ốc đảo] của Đông Nam Á, bởi vì nếu chúng ta có các tiêu chuẩn của thế giới thứ nhất [First World standards], thì doanh nhân và khách du lịch sẽ sử dụng đất nước chúng ta thành một bàn đạp cho hoạt động kinh doanh và các tour du lịch trong khu vực”. Tiếp đến là phải thay đổi hẳn thói quen cổ truyền cản trở của hai triệu dân, thông qua giáo dục họ, giáo dục con cái họ trong nhà trường để có tác dụng lên cha mẹ, và thông qua luật pháp.
Để đạt được First World standards trong một vùng của thế giới thứ ba, LQD quyết định biến đất nước thành một thành phố-vườn-nhiệt đới, và phải làm cho nó “sạch và xanh” theo đúng nghĩa. Với xanh và sạch, Singapore đã nhanh chóng gây được ấn tượng tốt mạnh mẽ cho thế giới.
Không những giữ cho cảnh quang xanh, sạch, mà ông còn giữ cho chính quyền Singapore trong sạch. Trong cái bể của tham nhũng nặng nề của Châu Á thì Singapore nổi lên như một hòn đảo ít tham nhũng nhất, sạch nhất.
Singapore lại thể hiện một lần nữa tinh thần “thoát Á nhập Âu” mà Nhật Bản thời Minh Trị đã đi tiên phong. Việc chuyển đổi một đất nước từ thế giới thứ ba sang đất nước có tiêu chuẩn thế giới thứ nhất là không dễ. Những ý tưởng của LQD lúc đầu bị xem là không tưởng. Các phóng viên nước ngoài cười chế nhạo những chiến dịch “làm tốt” của Singapore. Nhưng LQD tin rằng “chúng ta sẽ là những người cười sau cùng. Chúng ta sẽ phải cam chịu trở thành một xã hội thô tục hơn, khiếm nhã hơn, thô bạo hơn nếu chúng ta không làm những nỗ lực này để thay đổi cách sống. Chúng ta chưa đạt tới mức một xã hội có giáo dục và văn minh, và chúng ta không xấu hổ ra sức trở thành một dân tộc như thế trong một thời gian ngắn nhất có thể”.
Thủ tướng Lý Quang Diệu tiếp đón nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình
Bây giờ đến câu hỏi: Vì sao Trung Quốc làm được những kỳ tích mà VN thì không?
Thực tế, cuộc thăm viếng lần đầu tiên năm 1978 của Đặng Tiểu Bình tại Singapore là cái mốc lịch sử hết sức quan trọng cho cuộc chuyển đổi TQ. Đặng Tiểu Bình đã tận mắt nhìn những thành quả ấn tượng của mấy triệu dân Singapore cần cù, thông minh này và đã hết lời khen ngợi ông LQD. Cuối chuyến đi, ĐTB nói: “Phải chi tôi chỉ có Thượng Hải thôi (dân số gấp ba hay bốn lần dân số Singapore), thì tôi sẽ có thể biến đổi nó nhanh chóng (như ông đã biến đổi Singapore). Nhưng tôi có cả một đất nước Trung Hoa!”.
Trong chuyến đi này ĐTB đã nghe LQD “giảng bài” về lợi hại của chủ nghĩa: “Chủ nghĩa cộng sản chỉ thành công nếu ông tin rằng tất cả mọi người hy sinh mình cho đồng loại chứ không cho gia đình hay chính bản thân mình. Còn tôi, tôi hoạt động trên cơ sở rằng con người, trai cũng như gái, trước nhất lao động cho chính bản thân và gia đình họ, và chỉ trên cơ sở đó họ mới chia sẻ một phần thành quả lao động của họ cho những người đồng loại ít may mắn hơn. Đấy là nền tảng hoạt động của tôi”. Ông Lý cho rằng các nhà lãnh đạo kỳ cựu của cuộc Trường chinh của TQ không hiểu gì cả về kinh tế thị trường cả, tuy cũng có thể đã đọc Adam Smith.
Lý Quang Diệu nói: “Nếu Đặng Tiểu Bình không đến đây (trong những năm 70) và thấy các tập đoàn đa quốc gia phương Tây tại Singapore tạo ra sự phồn vinh cho chúng tôi, đào tạo người của chúng tôi để rồi chúng tôi có khả năng xây dựng một xã hội phồn vinh, thì ông ấy sẽ không bao giờ (dám) mở cửa… mở cửa các Đặc khu kinh tế miền ven biển, điều cuối cùng dẫn đến việc cả nước Trung Hoa mở cửa và đi vào WTO”. Sự thành công của Singapore là thí dụ “bảo chứng” cho quyết định mở cửa của ĐTB.
Ảnh hưởng của Singapore và của cá nhân ông Lý Quang Diệu lên các nhà lãnh đạo làm chính sách của TQ là rất to lớn, chưa thể đánh giá hết được. Thực tế, các thành phố mới của TQ là hình ảnh “cảm ứng” của mô hình Singapore của LQD, dĩ nhiên theo cách làm riêng của TQ.
Hạt giống Singapore đã được đem về trồng trên đất TQ. Singapore giúp đào tạo cán bộ, chuyên viên cao cho TQ trong cuộc chuyển đổi này. Hằng năm TQ gửi 110 – 120 thị trưởng, hay các viên chức cùng cấp, từ các thành phố của họ đến học tập một khóa từ tám đến chín tháng về quản lý công và quản lý thành thị. Họ được dạy bằng ngay tiếng Hoa. Còn gì hay bằng! Sau đó họ đi thực địa và nghiên cứu tại chỗ, và khi về nước, họ viết lại những kinh nghiệm học tập tại Singapore. Singapore cũng có những liên doanh xây dựng một số thành phố kiểu mẫu, trong đó có thành phố sinh thái Thiên Tân. Hai bên có một ủy ban hỗn hợp họp thường niên, cấp phó thủ tướng.
Kể ra những chi tiết trên là để minh họa phần nào sự dấn thân của Singapore và ông LQD vào TQ thế nào để giúp lãnh đạo TQ thực hiện quá trình chuyển đổi kinh tế và xây dựng đất nước. Lý Quang Diệu được xem là Tutor cho giới lãnh đạo TQ, và có quan hệ rất mật thiết, hiểu biết TQ rất sâu sắc. Nhiều Tổng thống Mỹ đã gặp LQD trước, để nghe ý kiến của ông về TQ, rồi mới đến thăm TQ sau.
Đối với TQ, sự hợp tác với Singapore là mưu đem lại lòng tin đối với thế giới cho công cuộc đổi mới của TQ.
Còn đối với Singapore, ông LQD giúp TQ là nhắm có được một chân trên chuyến xe tốc hành TQ vào thế kỷ 21 mà ông bảo sẽ là thế kỷ TQ. Và ông đã thú nhận đã đạt được điều đó. Thế còn chân thứ hai của Singapore ông để ở đâu? Ở Hoa Kỳ. “Số phận của chúng tôi không chỉ tùy thuộc vào điều gì xảy ra ở Johor hay Indonesia hay ở ASEAN. Nó tùy thuộc vào điều gì xảy ra ở Mỹ trong trật tự mới ngày hôm nay này”. Đi một mình với TQ ông sợ có ngày bị cọp ăn thịt mất.
Còn về cách tuyển chọn nhân sự ở TQ, ông LQD nhận xét rằng, sau cuộc cách mạng văn hóa, Đảng CS TQ trở lại mô hình tuyển dụng của vua chúa thưở xưa: chọn lựa qua tài năng, qua học lực, sát hạch. Mỗi thí sinh đều có hồ sơ học lực từ đầu. Và sự xét duyệt để bổ nhiệm dựa trên hồ sơ đó. Cho nên thế hệ lãnh đạo sau đều được học cao hơn thế hệ trước. Bây giờ có cả những thị trưởng có bằng Ph.D, và một số trong họ có bằng MBA của các trường đại học Mỹ.
TQ làm được những kỳ tích là vì lực lượng của Đặng Tiểu Bình là lực lượng đổi mới, sau khi Mao qua đời và “bọn bốn người” bị xử, lực lượng mao-ít đã cáo chung. Các nhà lãnh đạo mới của TQ muốn đoạn tuyệt với quá khứ của cách mạng văn hóa đã gây quá nhiều đau khổ. Đặng là người đã dám đoạn tuyệt với chủ nghĩa cộng sản, theo lời LQD; và đó chính là một bước đại nhảy vọt của lãnh đạo TQ về mặt tư tưởng. Họ có kỳ vọng đưa đất nước tiến lên khỏi sự lạc hậu để thiết lập lại đẳng cấp của dân tộc đã bị mất đi hàng thế kỷ. Đằng sau họ là đống tro tàn không có gì để luyến tiếc. Trong kế hoạch đổi mới, TQ có Singapore làm mô hình để học hỏi cụ thể, và có Lý Quang Diệu làm người hướng đạo bên cạnh cho cuộc hành trình.
Nguyên Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng
Còn Việt Nam, đặc thù tình hình đã khiến không có một lực lượng đổi mới rõ ràng nào cả. Những người cũ hôm qua tiến hành cuộc đổi mới hôm nay. Không có một sự đoạn tuyệt về tư tưởng và một sự ‘thay ca’ về nhân sự như ở TQ; quá khứ cứ mãi là ‘thiêng liêng’ và trở thành ‘điệp khúc chính trị’ thay cho nhận thức mới trong thời kỳ cần thiết có những thay đổi sâu sắc và triệt để; thiếu vắng ý chí vươn lên thật mạnh mẽ để mở đường. Cho nên đổi mới là không triệt để, nếu không muốn nói là nửa vời.
Đổi mới ở Việt Nam không vì đổi mới nhằm ‘lột xác’ thực sự để đóng lại chương cũ của quá khứ và mở ra một chương mới trước tình hình mới của thế giới. Mà Đổi mới của Việt Nam nhằm bảo vệ cái cũ nhiều hơn. Các nhà lãnh đạo VN có thể học ở Singapore, có thể được Lý Quang Diệu giúp đỡ nhiều hơn, nhưng họ không có động cơ mạnh mẽ, vẫn còn nhìn lại phía sau để luyến tiếc. Họ không học mô hình Singapore ở ngay trước mắt và kho tàng tri thức của Lý Quang Diệu như lãnh đạo TQ đã làm.
LQD cho rằng, những người lãnh đạo Việt Nam có thói quen cố hữu của ‘chiến tranh du kích’, không ai nghe ai, không tập trung, không chính quy, thiếu một lãnh đạo mạnh, và họ rất nghi ngờ người nước ngoài.
TT Phạm Văn Đồng, do thời cuộc bấy giờ, chưa phải là người cầu thị, ông đến Singapore sau 1975 với tư thế của người chiến thắng và người cộng sản tự hào, ông chưa thấy cái to lớn của Singapore và nhu cầu học hỏi, cái lạc hậu của khối xã hội chủ nghĩa, ông vẫn còn ảo tưởng về Chủ nghĩa xã hội trước khi đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng sắp đến. Cuộc gặp gỡ đó không để lại những ấn tượng đẹp ở Lý Quang Diệu, như cuộc gặp gỡ với Đặng Tiểu Bình đã làm, chưa nói làm mích lòng chủ nhà là khác. Phải đợi mười năm sau, khi VN bị cô lập, khủng hoảng, suy yếu nghiêm trọng, TT Võ Văn Kiệt mới là người đến với LQD với tư thế thật sự cầu thị. Và cũng chỉ lúc đó ông LQD mới có cảm tình với lãnh đạo VN.
TBT Đỗ Mười, tuy không phải là người hăm hở đổi mới, nhưng cũng đã có ý muốn áp dụng một số ý tưởng của mô hình Singapore nhưng rồi người ta bàn bạc cho nó tan biến đi; chính ông đã cho dịch các bài phát biểu của LQD và phổ biến đầu tiên tại VN.
Người Singapore và nước ngoài vào làm ăn gặp phải những khó khăn không đáng có. Việt Nam không muốn học hỏi cái mới thật sự, mà chỉ muốn tự biên tự diễn và tự hào về mình là chính, loại bỏ tất cả những gì mình không ưa, bị giới hạn trong tầm nhìn, khác với tinh thần đổi mới, cầu thị và sự nhìn xa của TQ. Thái độ đó tự hại mình, tự che mắt mình, giống như thái độ tự cao tự đại của vua quan VN xưa khi nhìn người nước ngoài đến muốn làm ăn với VN. Cái đuôi sam kia vẫn chưa bị xén, và vẫn cứ mọc dài ra vào thế kỷ 21 này.
Chính sách tuyển chọn nhân sự của VN cũng không dựa trên tài năng, học lực, mà chỉ dựa trên quan hệ, vây cánh, ‘tính truyền thống’, óc vâng lệnh phục tùng để chìu lòng cấp trên, và cấp trên chỉ muốn nghe những gì mình thích từ cấp dưới, hay dựa trên sự ‘mua quan bán chức’. Trong khi phần lớn các thị trưởng, tỉnh trưởng ở TQ đều là những người trẻ tuổi, học hết cấp ba, thì ở VN giới này là những người cầm quân trước đây trong quân đội.
Thủ tướng Lý Quang Diệu và Thủ tướng Võ Văn Kiệt
Ông LQD đề nghị với TT Kiệt và bộ sậu của ông là nên bổ nhiệm các chiến sĩ lão thành vào các chức vụ tư vấn và đưa những người trẻ, nhất là những người trẻ có khuynh hướng mở cửa kinh tế sang phương Tây lên đảm trách công việc hàng ngày. Ông LQD cho rằng, VN cần cởi bỏ ‘chiếc áo chật cộng sản’, thì họ mới tiến nhanh và linh động đến thắng lợi. LQD nhìn thấy tiềm năng của người VN qua cuộc chiến tranh gian khổ, và sự thành đạt của Việt Kiều ở Mỹ và Pháp, đó phải là những điều nhắc nhở rằng dân tộc này là dân tộc có những phẩm chất tuyệt vời.
Không có quyết tâm đổi mới để đưa đất nước nhanh chóng hóa rồng thì cũng sẽ không có chính sách nhân sự đúng đắn, trong sáng và phù hợp với nhu cầu. Nhân tài bị bốc hơi, bị loại khỏi sân chơi và không được lắng nghe. Ngựa giỏi đã hết trong chuồng.
Người TQ đã xóa được những hậu quả của cuộc cách mạng văn hóa, của bức tranh mà Mao Trạch Đông đã muốn vẽ áp đặt lên lịch sử 5.000 năm của Trung Hoa, phục hồi lại DNA của dân tộc. Còn Việt Nam, chẳng biết DNA bốn nghìn năm văn hiến có còn nguyên vẹn hay không trước sự băng hoại nghiêm trọng và kéo dài hiện nay của xã hội?
Sau cùng tôi xin nói thêm đôi lời về Lý Quang Diệu. Ông là một con người không phải không có tranh cãi. Nhiều người dân chủ không chia sẻ một số quan điểm của ông. Ông xem cuộc xây dựng Singapore là một “cuộc cách mạng xã hội bằng những biện pháp hòa bình”, và không bao giờ đi chệch khỏi mục tiêu đó. Ông tự nhận mình là người theo Khổng giáo: “Tôi không bị ràng buộc bởi lý thuyết, nhưng sự giáo dục của tôi trong một gia đình kéo dài ba thế hệ làm cho tôi trở thành một người theo Khổng giáo không ý thức. Niềm tin Khổng giáo thâm nhập vào tôi, rằng xã hội chỉ hoạt động tốt khi mọi người đều nhắm trở thành người quân tử”. Ông tin vào đạo ‘ngũ thường’ của Khổng Tử. Từ thế giới quan này, ông đặt quyền lợi đất nước lên trên quyền lợi cá nhân, đặt nặng vai trò của một nhà nước mạnh và ưu việt để gìn giữ trật tự. Nhưng thành quả mới là sự biện minh cho nhà nước đó.
Người ta có thể biện minh sự kiểm soát tối đa của nhà nước và sự loại bỏ đa nguyên chính trị cần thiết, vì ổn định và phát triển. Nhưng rồi người ta phải chứng minh bằng thành quả của hành động. Không có thành quả tương ứng, anh chỉ là kẻ tham quyền vô độ. Nếu quyền lực chỉ vì quyền lực, đất nước dễ rơi vào chủ nghĩa ích kỷ, bè phái, tham nhũng và lũng đoạn.
LQD không xem mình là ’soft authoritarian’ [nhà độc tài mềm] như một số người ở phương Tây xem ông, bởi vì ông có kết quả để biện minh, và kết quả là rất thuyết phục; và các chính sách của ông cứ bốn đến năm năm đều được cử tri chấp thuận lại với một đa số không dưới 60 phần trăm. Với quan niệm Khổng giáo, ông đặt nặng trách nhiệm của những người lãnh đạo: “Chúng ta đừng bao giờ quên rằng chúng ta, những tinh hoa được giáo dục theo hệ thống giáo dục Anh, chỉ xứng đáng với vị trí chúng ta bao lâu chúng ta có năng lực phục vụ xã hội”. Trước khi rời Đại học Frizwilliam, Cambridge, Anh, nơi ông đã học 4 năm ngành Luật và đã tốt nghiệp với hạng Double Starred First Class Honoursđể trở lại Singapore hoạt động, LQD trong một bài diễn văn đã khẳng định quyết tâm sắt đá của mình: “Chúng ta phải đạp đổ niềm tin rằng chúng ta là thấp kém và sẽ luôn mãi thấp kém so với người châu Âu”.
Ông đã học được sự sống chung hòa bình của các chủng tộc khác nhau từ không quốc gia nào khác hơn là Thụy Sĩ để làm mô hình sống chung cho các sắc tộc của Singapore sau này.
Ông tự ý thức việc làm phục vụ cho sự nghiệp của nhân dân Singapore mặc cho những lời chỉ trích: “Điều mà giới độc giả thế giới phương tây không hiểu là cuối cùng tôi không quan tâm họ đánh giá tôi thế nào. Tôi chỉ quan tâm nhân dân mà tôi lãnh đạo đánh giá tôi thế nào”.
Triều đại LQD có thể cũng sẽ không vĩnh viễn. Ông nói: “Mỗi hệ thống cần được xét lại theo thời gian. Không hệ thống nào tồn tại vĩnh viễn. Các điều kiện thay đổi, những thiếu sót trong hệ thống phát triển quá mức, lúc đó người ta cần phải xem xét lại. Anh không thể nói đó là một nguyên lý phổ quát có giá trị vĩnh cửu”. và “Đó là nhiệm vụ của thế hệ hiện tại và tương lai của giai tầng lãnh đạo có nhiệm vụ thay đổi và tu chỉnh hệ thống khi xã hội và công nghệ thay đổi”. Dù sao LQD cũng sẽ đi vào lịch sử như một “người cha lập quốc” bất tử của Singapore.
Ông không tin vào Thượng đế, mà tin vào thuyết tiến hóa của Darwin. Singapore có lẽ là sự minh họa hùng hồn cho thuyết tiến hóa này: thích nghi để tồn tại, một cách thông minh. Ông không làm nô lệ cho một ý tưởng giáo điều nào. Ý tưởng nào không phù hợp, ông vứt nó đi và tìm ý tưởng khác. Ông là một người thực dụng. “Tôi đuổi bắt các ý tưởng, miễn là chúng đem lại kết quả. Nếu không, tôi nói, xem này, ý tưởng này có thể nghe hay đấy, nhưng thôi chúng ta hãy đi tìm cái gì khác hoạt động có hiệu quả đi”. Đầu ông là một ‘vườn ươm ý tưởng’. Có người lý tưởng hóa ông khi nói rằng, tại miếng đất Khổng tử của ông, Plato và Machiavelli gặp gỡ nhau, và LQD chính là một ‘Machiavelli Châu Á’.
Về sự thành công của LQD: ông có lẽ thành công là vì Singapore là mảnh đất nhỏ, dân số lúc độc lập chỉ 2 triệu người; nhưng ông chắc sẽ gặp khó khăn hơn với một đất nước dân số đông vài chục triệu người. Lực lượng đối lập và bảo thủ sẽ đông đảo và sẽ có thể loại ông ra khỏi cuộc chơi. Cũng may mắn cho ông. Trong chừng mực này, thời cơ đã tạo anh hùng. Dĩ nhiên điều ngược lại cũng đúng.
Thưa các Anh Chị, bức tranh trên nói về Singapore, LQD, ĐTB, TQ, VN nhìn từ góc độ Singapore chắc chắn cần có sự điều chỉnh, tôi mong những anh chị am hiểu tình hình Singapore hơn tôi, những anh chị đã từng sống ở đó, anh Võ Tá Hân và các bạn của anh chẳng hạn có thêm ý kiến, hay các anh Việt, Long, Dũng từ góc độ Mỹ, và nhiều anh chị khác có nghiên cứu những vấn đề này.
Cuối thư, xin mách thêm: các Anh Chị nào muốn thấy được “ngọc xá lợi Phật” có thể đến thăm “Chùa răng Phật”, vì họ có lưu trữ một chiếc răng Phật và nhiều xá lợi Phật khác. Ngôi chùa 5 tầng này cũng rất hiện đại như chính Singapore vậy. Chùa đã góp nhặt nhiều di tích Phật giáo châu Á quý báu. Còn ai muốn ăn chay thì xin đến khu Mustafa, ở đó có rất nhiều nhà hàng chay Ấn Độ và Đài Loan. Còn ai muốn thưởng lãm đồ ăn Thụy Sĩ, xin hãy đến nhà hàng “Marché” tại Sommerset 313, Orchard Road, rất ấm cúng và thanh lịch, trang trí bằng toàn gỗ từ và theo kiểu Thụy Sĩ. Singapore có nhiều nhà sách lớn tuyệt vời để thỏa mãn những người yêu sách: Borders (Mỹ), Kinokuniya (Nhật, nằm ngay trong đại siêu thị Takashimaya, Orchard Road), hay một nhà sách lớn khác (PAGEONE) ở khu mua sắm Vivo gần khu vui chơi Sentosa. Người mua vô ra nườm nượp, phản ảnh trình độ văn hóa cao của người dân Singapore. Sách vở bày bán có thể còn nhiều hơn ở Mỹ, đủ tất cả các chủng loại tri thức trên đời.
Thư đã khá dài. Xin tạm ngừng bút. Cám ơn các Anh Chị.
Thân ái,
N.X.X.
Tài liệu tham khảo:
[1] Alex Josey, Lee Kwan Yew, The Crucial Years. Times Books International. Singapore, Luala Lumpur, 1986; reprint 1994.
[2] Lee Kwan Yew, Memoirs. From Third World to First. The Singapore Story: 1965-2000.Marshall Cavendish Editions 2000; reprint 2011.
[3] Tome Plate, Conversations with Lee Kwan Yew. How To Build A Nation. Marshall Cavendish Editions 2010.
Nguồn: ndanghung.com
22.07.2011 Leave a comment
Thông báo: Quý khách có thể theo dõi tin tức từ TTX Vỉa hè trên Facebook (ở VN có mạng như FPT dựng tường lửa, không vô được FB), hoặc có thể bấm vào ô tìm kiếm trên Facebook chữ “Basam News” thì tất cả các bản tin sẽ hiện ra. Độc giả bên Twitter […]
Phản hồi