Không thể đi ngược ý chí nhân dân

CatBo5.jpg
Phạm Đình Trọng"Thực tế diễn ra những năm tháng qua và đang diễn ra hôm nay trên đất nước ta là bằng chứng hiển nhiên, không thể phủ nhận: Đảng Cộng sản Việt Nam đang đi ngược ý chí nhân dân Việt Nam! Quyền lực dù mạnh đến đâu cũng chỉ nhất thời! Nhân dân là mãi mãi. Thành ngữ dân gian: Quan nhất thời, Dân vạn đại! Quyền lực đi ngược ý chí nhân dân, quyền lực đó không thể bền vững…"

Hiệp định Biên Giới ký với Trung Quốc năm 1999 là hiệp định bán đất của tổ tiên Việt Nam hôm qua và bán máu của đồng bào chiến sĩ Việt Nam hôm nay.

1. NHÀ NƯỚC KHÔNG MANG Ý CHÍ NHÂN DÂN

Người dân Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh phẫn nộ biểu tình trước trước cơ quan đại diện nhà nước Trung Hoa không phải chỉ vì hành động gây hấn mang rõ bản chất xâm lược, thôn tính của những chiến hạm Trung Hoa giả dạng tàu dân sự, tàu đánh cá, tàu giám sát biển mà còn vì ứng xử nhu nhược đến tủi nhục làm mất thể diện quốc gia, làm nhụt ý chí dân tộc của các cơ quan chức năng nhà nước Việt Nam!

Trước việc tàu lớn tàu nhỏ Trung Hoa ngang nhiên vào ra, xục xạo ngang dọc trên vùng biển Việt Nam như trên biển của họ, coi tàu thuyền Việt Nam và những người dân Việt Nam đánh cá trên biển Việt Nam như những kẻ tội phạm xâm nhập vùng biển của họ, họ thẳng tay bắn giết, bắt bớ, giam cầm đòi tiền chuộc mạng, chiếm đoạt tài sản, phá hủy phương tiện làm ăn của người dân và doanh nghiệp nhà nước Việt Nam! Nếu cơ quan chức năng nhà nước Việt Nam có ứng xử thỏa đáng, bảo vệ dân, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, có tư thế hiên ngang của một nhà nước độc lập, tự chủ, khôn khéo và cương quyết đòi Trung Hoa chấm dứt xâm phạm vùng biển Việt Nam, thực hiện những lời tốt đẹp họ đã nói về mối quan hệ hai nước thì người dân Việt Nam hoàn toàn yên tâm, tin cậy giao vận mệnh dân tộc và vận mệnh đất nước cho những người xứng đáng ở vị trí quản lí đất nước, lãnh đạo nhà nước. Người dân chỉ còn bình tĩnh trong tư thế sẵn sàng đáp ứng mọi sự huy động sức dân, đáp ứng cả xương máu cho sự nghiệp giữ nước!

Nhưng thực tế đã không như vậy!

Vì nhà nước không phải do dân bầu ra nên không mang ý chí nhân dân! Đảng cử – Dân bầu! Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua tổ chức cấp hai của đảng là Mặt trận Tổ quốc đề cử người ứng cử đại biểu Quốc hội, đề cử cả quân xanh, quân đỏ! Ai trúng, ai trật đảng đều đã trù liệu chi li từ trước khi người dân bỏ phiếu! Đảng chỉ mượn lá phiếu của người dân cho có hình thức dân chủ trong việc hình thành lên Quốc hội của đảng! Những người đảng không có ý định cho làm đại biểu Quốc hội mà nhảy ra ứng cử, chen vào phá bĩnh trò chơi dân chủ của đảng thì với ba vòng hiệp thương, ba vòng sàng lọc, khi kín đáo tinh vị, khi thô bạo, không cần giấu giếm, đảng sẽ thẳng cánh loại ra! Luật sư Lê Quốc Quân, nhà khoa học Nguyễn Phúc Giác Hải bị đấu tố hội đồng, sống sượng và thiếu vắng văn hóa, loại ra khỏi danh sách ứng cử viên đại biểu Quốc hội khóa XIII vừa diễn ra là dẫn chứng còn nóng hổi! Quốc hội về danh nghĩa là cơ quan quyền lực cao nhất của dân, đại biểu cho ý chí nhân dân nhưng thực chất chỉ là cơ quan thực hiện các thủ tục hành chính của đảng, chỉ làm thủ tục hợp thức hóa các chức danh trong bộ máy nhà nước của đảng và hợp thức hóa các chủ trương, các quyết định của đảng!

Hội trường Ba Đình, Hà Nội, nơi diễn ra những sự kiện lịch sử lớn của những năm tháng hào hùng, nơi hướng về của những niềm tin sắt son, nơi hội tụ, tập hợp và phát huy được sức mạnh vô địch của nhân dân làm nên chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Ai đã thực sự gắn bó cuộc đời, gắn bó máu thịt với nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ai đã chứng kiến những giờ phút lịch sử ở Ba Đình thời cách mạng còn tinh khôi, trong trẻo, đẹp đẽ, thần thánh, đều hiểu rằng hội trường Ba Đình là hiện thân của thời cách mạng tinh khôi đó, là ngôi đền linh thiêng của cuộc cách mạng dựng lên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vàng son một thời, đều hiểu rằng đó là di tích lịch sử bất khả xâm phạm! Phá hội trường Ba Đình là động chạm đến tình cảm sâu thẳm của nhân dân với nhà nước cách mạng thời oanh liệt chống Mĩ cứu nước nên phải có thủ tục đưa ra bàn ở Quốc hội. Nhưng Quốc hội vừa cân nhắc xem có nên phá hội trường Ba Đình lịch sử không thì ông ủy viên Bộ Chính trị đảng Cộng sản cũng là chủ tịch Quốc hội chỉ nói gọn lỏn: Việc phá hội trường Ba Đình, Bộ Chính trị đã quyết định rồi! Thế là khỏi bàn! Các đại biểu chỉ còn răm rắp bấm nút biểu quyết: Phá! Đó! Cơ quan quyền lực cao nhất của dân đó!

Quốc hội vừa đề nghị đưa vào chương trình nghị sự xem xét trách nhiệm của Chính phủ và Thủ tướng trong việc để Vinashin thất thoát cả trăm ngàn tỉ đồng, đẩy nền kinh tế đất nước vào tình cảnh thiếu vốn sản xuất nặng nề, đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế, giá cả leo thang, lạm phát lên tới 20%, đời sống người dân điêu đứng! Nhưng Quốc hội chưa kịp bàn gì đến Vinashin thì một đại biểu bình thường, không có chức danh gì ở Quốc hội, nhưng trong đảng, ông là ủy viên Bộ Chính trị, trong Chính phủ, ông là Phó Thủ tướng, với quyền uy đó, ông cao giọng nhắc nhở “cơ quan quyền lực cao nhất của dân”: Trong vụ Vinashin, Bộ Chính trị quyết định không kỉ luật ai! Không ai bị kỉ luật là không ai phải chịu trách nhiệm trong việc thất thoát cả trăm ngàn tỉ đồng tiền mồ hôi nước mắt của dân! Vinashin dưới quyền quản lí trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ. Với tội trạng của Vinashin đã đủ cấu thành tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng của người quản lí! Với quyết định không kỉ luật ai trong vụ Vinashin, Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam đã đứng trên Quốc hội, đứng trên cả pháp luật thì các đại biểu Quốc hội hầu hết đều là đảng viên Cộng sản, đều do đảng cử vào Quốc hội, làm sao dám xem xét trách nhiệm mấy ông ủy viên Bộ Chính trị là Thủ tướng, Phó Thủ tướng! Đó! Cơ quan đại diện cho ý chí nhân dân đó!

Tóm lại, với sự độc quyền thống trị xã hội của đảng Cộng sản thì gần chín mươi triệu người dân Việt Nam chỉ là con số không tội nghiệp, không có vai trò gì đối với nhà nước của đảng Cộng sản! Bộ máy nhà nước do đảng dựng lên không mang ý chí của dân, chỉ mang ý chí của đảng! Ý chí của dân là độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ. Suốt chiều dài lịch sử, người dân Việt Nam đã không tiếc xương máu, hết thế hệ này đến thế hệ khác đổ máu hi sinh để giành độc lập và giữ gìn toàn vẹn lãnh thổ! Còn ý chí của đảng là chủ nghĩa xã hội! Vì chỉ có duy trì chủ nghĩa xã hội mới duy trì được vị trí độc tôn thống trị xã hội của đảng!

2. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI: LÒNG DÂN KHÔNG THUẬN, HÀO KIỆT TAN TÁC

Sai lầm, huyễn hoặc, ảo tưởng, phản con người, phản qui luật tự nhiên, chủ nghĩa xã hội sau gần một thế kỉ tồn tại bằng chiến tranh và cách mạng liên miên, bằng máu và nước mắt, đến nay đã sụp đổ trên phạm vi thế giới! Cố duy trì chủ nghĩa xã hội của quá khứ đau khổ đó, Việt Nam trở nên lạc lõng, lẻ loi với thế giới, đảng Cộng sản Việt Nam phải vội vã tìm đến Trung Hoa với lí lẽ: Việt Nam và Trung Hoa cùng là nước xã hội chủ nghĩa, cùng do đảng Cộng sản lãnh đạo, Việt Nam phải đoàn kết với Trung Hoa để bảo vệ chủ nghĩa xã hội! Đảng Cộng sản Việt Nam phải dựa vào đảng Cộng sản Trung Hoa, dựa vào sức mạnh Trung Hoa, dựa vào bạo lực Trung Hoa để duy trì chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam! Đảng Cộng sản Việt Nam mang niềm tin có cùng mẫu số chung với Trung Hoa là chủ nghĩa xã hội sẽ tạo được liên minh với Trung Hoa để chống đỡ với bão táp của thời đại dân chủ hóa, đa nguyên hóa! Lãnh đạo Trung Hoa liền lợi dụng niềm tin đó, lợi dụng ngay mẫu số chung chủ nghĩa xã hội để lừa mị, trói buộc, nô dịch lãnh đạo Việt Nam, gây chia rẽ sâu sắc giữa lãnh đạo và nhân dân Việt Nam, làm suy yếu sức mạnh dân tộc Việt Nam, tạo ra thời cơ ngàn năm có một thôn tính Việt Nam, gấp gáp trước mắt là thôn tính biển Đông, giải cơn khát dầu mỏ và mở hướng xuống phía Nam, khống chế cả Đông Nam Á!

Lãnh đạo Trung Hoa hào phóng ban phát Mười Sáu Chữ Hữu Hảo, Bốn Điều Tốt chính là trò lừa mị đó và những liều thuốc mê Láng Giềng Hữu Hảo, Đồng Chí Tốt đã thực sự làm cho nhiều người Việt Nam có quyền lực mê sảng! Trung Hoa ngang ngược cấm dân Việt Nam đánh cá trên biển Việt Nam. Tàu chiến Trung Hoa xông vào biển Việt Nam bắn giết dân Việt Nam, bắt bớ, cướp bóc tàu thuyền Việt Nam nhưng lãnh đạo Việt Nam vẫn rổn rảng tụng ca Láng Giềng Hữu Hảo, Đồng Chí Tốt! Chỉ trong mười ngày, hai lần liên tiếp tàu giám sát biển Trung Hoa vào biển Việt Nam cắt cáp khảo sát dầu khí của tàu Việt Nam. Nhân dân cả nước sôi sục phẫn nộ chỉ mặt bành trướng Đại Hán, vạch tội kẻ cướp có chủ ý, có hệ thống! Thế mà thời điểm đó, đại tá phó tham mưu trưởng hải quân Việt Nam vẫn dẫn hai tàu hải quân Việt Nam sang tận sào huyệt kẻ cướp thăm viếng hữu hảo, vẫn véo von Láng Giềng Hữu Hảo, Đồng Chí Tốt! Nhân dân nghèo khổ vẫn chắt bóp đóng thuế nuôi hải quân no đủ, mua tàu lớn tàu nhỏ cho hải quân giữ biển Việt Nam. Nhưng biển Việt Nam thì để cho tàu Trung Hoa làm chủ, mặc sức bắn giết, bắt bớ dân Việt Nam, còn tàu của hải quân thì để cho sĩ quan cao cấp của hải quân Việt Nam đi thăm viếng hữu hảo những kẻ đã cướp biển Việt Nam, bắn giết dân Việt Nam, phá hoại cuộc sống lao động của người Việt Nam!

Chủ nghĩa xã hội đã làm cho lãnh đạo Việt Nam không còn mang hồn Việt Nam nữa! Còn người dân Việt Nam nhắc đến chủ nghĩa xã hội lại rùng mình, dựng tóc gáy nhớ lại những nỗi khủng khiếp, những tai họa giáng xuống dân tộc, giáng xuống số phận dân lành suốt mấy chục năm trời chủ nghĩa xã hội ngự trị ở Việt Nam! Cố duy trì chủ nghĩa xã hội đã tước mất của đảng Cộng sản Việt Nam sức mạnh làm nên mọi thắng lợi: Lòng dân, đã đặt đảng Cộng sản Việt Nam trước tình thế hiểm nghèo không thể vượt qua!

Dân và đảng không cùng ý chí thì lòng dân không còn! Chỉ có thể huy động được sức mạnh vô tận, sức mạnh vô địch của nhân dân làm nên mọi thắng lợi khi năng lượng tình cảm, năng lượng ý chí của nhân dân được giải phóng và cộng hưởng với chính quyền. Không có khó khăn thử thách nào lớn hơn khó khăn và thử thách của cuộc kháng chiến chống Mĩ! Nhờ có năng lượng tình cảm và ý chí của nhân dân được giải phóng và cộng hưởng với chính quyền chúng ta đã vượt qua được khó khăn, thử thách nặng nề đó, giành chiến thắng! Không có sự cộng hưởng ý chí và tình cảm, người dân chỉ còn là những nô lệ cưỡng bức, không tạo nên sức mạnh dân tộc! Ngày nay, năng lượng tình cảm và ý chí của nhân dân bị kìm hãm đủ đường!

– Nghị định 97 của Thủ tướng Chính phủ vô hiệu hóa sự phản biện của trí thức bằng qui định buộc trí thức chỉ được phản biện trong hệ thống hành chính quan liêu, vô cảm. Viện IDS, một túi khôn của dân tộc, nơi tập hợp những trí thức hàng đầu đất nước, nơi cất lên tiếng nói trí tuệ tham gia giải quyết những vấn đề đặt ra của đất nước, đành tự giải tán!

Nhân dân biểu tình bộc lộ ý chí độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ bị công an nổi, công an chìm rải đầy phố, dùng trang bị kĩ thuật, dùng số đông áp đảo, dùng võ thuật nghiệp vụ, áp đảo, chia tách, cô lập, quây bắt như quây bắt tội phạm! Một đám công an chìm xúm lại quây bắt anh thanh niên mặc áo đỏ đi đầu đoàn biểu tình như bầy sói xâu xúm lại cắn xé con nai bị tách khỏi đàn! Một đám công an khác túm kéo anh thanh niên mặc áo trắng làm áo anh bị lột khỏi người rồi họ nắm hai chân, xốc hai nách khiêng anh đi như ngày tết người ta khiêng lợn đi chọc tiết! Một công an chìm gân cốt, quắp ngang người, nhấc bổng anh thanh niên biểu tình như diều hâu quắp gà con! Những hình ảnh của bạo lực đán áp! Những hình ảnh minh chứng sự đối lập, sự khác biệt ý chí giữa người dân và chính quyền! Những hình ảnh của ý chí và tình cảm nhân dân bị ngăn chặn, kìm hãm! Dân gian ta có câu thành ngữ: Tức nước vỡ bờ! Ngăn cản, kìm hãm tất sẽ dẫn đến tức nước vỡ bờ! Cách mạng hoa nhài ở Bắc Phi đang còn sôi sục và đã quật đổ mấy chế độ độc tài chính là sự tức nước vỡ bờ! Những người ra lệnh cho công an mặc đồ dân sự trà trộn vào dân, bắt bớ, ngăn cản không cho dân bộc lộ ý chí chính đáng có biết đến câu thành ngữ dân gian này nói về sức mạnh nhân dân?

Không cùng ý chí với dân không những mất dân mà còn không sử dụng được những trí thức thông tuệ, trung thực. Những trí thức chân chính, những hào kiệt của thời đại là trí tuệ, là khí phách của nhân dân bao giờ cũng đồng hành cùng dân tộc, có cùng ý chí với nhân dân. Chỉ ra những sai lầm tệ hại của học thuyết Mác Lê nin, của chủ nghĩa xã hội. Chỉ ra mối nguy cơ đe dọa đất nước từ đế quốc cộng sản Trung Hoa, nơi những người lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam gửi lòng tin, mộng tưởng tìm kiếm liên minh, tìm kiếm chỗ dựa để duy trì chủ nghĩa xã hội mất lòng dân. Chỉ ra những quyết sách, những toan tính thiển cận chỉ vì lợi ích phe nhóm mà hại dân, hại nước như bất chấp pháp luật, bất chấp ý chí nhân dân cho Trung Hoa vào Tây Nguyên khai thác bô xít, cho Trung Hoa thuê dài hạn diện tích rộng lớn rừng đầu nguồn, chấm cho Trung Hoa thắng thầu mọi công trình xây dựng lớn nhỏ để Trung Hoa tiêu thụ vật tư, kĩ thuật phế thải của Trung Hoa, để Trung Hoa ồ ạt đưa người xâm nhập, cài cắm khắp lãnh thổ Việt Nam. Chỉ ra cả những bộ mặt quyền lực ở vị trí quốc gia nhưng chỉ lo toan lợi ích cho gia đình . . . Chỉ những trí thức chân chính và trung thực, những hào kiệt của hôm nay mới đủ khí phách lên tiếng về những điều đó. Họ lên tiếng không phải vì họ mà chỉ vì dân, vì nước và họ đã được gì? Người thì bị buộc tội tuyên truyền chống nhà nước, phải bỏ phí năm tháng quí báu làm việc, đóng góp cho đời, bỏ phí trí tuệ, tài năng trong mòn mỏi lao tù! Người thì lơ láo thất sủng, không còn vị trí làm việc tương xứng với tài năng để thể hiện mình, con người trở về với dân dã, tài trí mai một với thời gian, tâm hồn mang nỗi khắc khoải không nguôi, trở thành kẻ lưu vong trong cuộc đời! Lưu vong ngay trong căn nhà của mình! Lưu vong ngay trên đất nước thân yêu của mình! Trí thức chân chính bao giờ cũng có khát khao cống hiến. Không có vị trí, không có môi trường để cống hiến là bất hạnh lớn nhất của họ và cũng là thiệt thòi lớn cho đất nước!

Thật sỗ sàng và bất nhẫn, bộc lộ thói hợm quyền, khinh rẻ trí thức khi trả lời những tiếng nói tâm huyết, trung thực của trí thức là một nghị định của quyền lực khước từ, bịt mồm trí thức! Lãng phí lớn nhất là lãng phí tài năng, trí tuệ! Không phải chỉ là lãng phí mà còn là tội ác! Tội ác với con người! Tội ác với đất nước! Tội ác với lịch sử! Một nhà nước bỏ tù trí thức chỉ vì trí thức nói thẳng, nói thật thì nhà nước đó không có từ nào khác gọi tên ngoài từ Độc Tài!

Một nhà nước đối xử với những hào kiệt quí hiếm, những trí thức chân chính và trung thực bằng nhà tù và những nghị định không cho trí thức tự do bộc lộ chính kiến thì nhà nước đó chỉ sử dụng được những công chức có bằng cấp, học hàm, học vị cao ngất ngưởng và có cả quyền cao chức lớn nhưng không phải là trí thức! Trí thức phải có cái Tôi. Cái Tôi tài năng! Cái Tôi nhân cách! Những công chức có học hàm, học vị cao, có quyền cao chức lớn kia không có cái Tôi! Họ chỉ ngước nhìn lên trên, dò xem bề trên nghĩ gì, muốn gì để họ nói, họ viết theo ý muốn đó! Họ chỉ có mớ lí thuyết xơ cứng, giáo điều, cùn mòn và một lối tư duy xưa cũ!

3. MỘT CHỦ TRƯƠNG MẤT GỐC: ĐỐI LẬP VỚI DÂN, LIÊN MINH VỚI ÁC

Cuộc chiến tranh Việt Mĩ kết thúc năm 1975 với chiến thắng thuộc về Việt Nam và nước Mĩ phải nhận phần thất bại đã mang lại cho nước Mĩ một điều tốt lành, bổ ích, cần thiết và mang đến cho dân tộc Việt Nam nhỏ bé, nghèo khổ một tai họa to lớn.

– Phúc của nước Mĩ. Suốt mấy thế kỉ liên tiếp thế giới biến động, hỗn loạn bởi cách mạng và chiến tranh đã dồn của cải đến cho nước Mĩ và của cải lớn nhất, quí nhất mà nước Mĩ nhận được là tài năng, trí tuệ, là đội ngũ trí thức tinh hoa của loài người. Cách mạng khoa học kĩ thuật rồi cách mạng xã hội! Chiến tranh thế giới lần thứ nhất rồi chiến tranh thế giới lần thứ hai! Chối bỏ sự cực đoan, quá khích của những cuộc cách mạng! Chối bỏ chiến tranh! Một đội ngũ trí thức đông đảo rời bỏ châu Âu sôi sục cách mạng và mịt mù khói lửa chiến tranh tìm đến nước Mĩ bên kia biển lớn, chiến tranh và cách mạng không lan tới. Với của cải lớn lao đó, nước Mĩ trẻ trung nhanh chóng trở thành nước Mĩ hùng mạnh đứng đầu thế giới. Sự giàu mạnh nhanh chóng của nước Mĩ làm cho những nhà chính trị Mĩ quá tự tin, đến ngạo mạn, hợm hĩnh, hung hăng muốn chi phối cả thế giới, áp đặt thế giới vào quĩ đạo Mĩ. Thua đau trong cuộc chiến với dân tộc Việt Nam bé nhỏ, nghèo nàn làm cho nước Mĩ bừng tỉnh nhận ra rằng sức mạnh của một dân tộc không phải chỉ do kinh tế và quân sự quyết định. Sức mạnh văn hóa có khi còn lớn hơn sức mạnh kinh tế, lớn hơn sức mạnh quân sự. Có dân tộc lớn, dân tộc nhỏ nhưng không có nền văn hóa lớn, nền văn hóa nhỏ. Thua đau trong cuộc chiến tranh Việt Nam, nước Mĩ nhận ra đúng giá trị Mĩ, nhận ra đúng vị trí của nước Mĩ khi ý thức được rằng: Trong thế giới văn minh, mỗi nền văn hóa đều có một giá trị lớn lao cần được tôn trọng, gìn giữ, làm đẹp, làm phong phú cho đời sống văn hóa con người, nâng cao phẩm giá con người. Nước lớn không phải để ăn hiếp, bắt nạt, thôn tính nước nhỏ, xóa sổ một nền văn hóa mà nước lớn phải có trách nhiệm lớn trong việc bảo đảm sự ổn định, bình yên của thế giới, có trách nhiệm lớn trước những vấn đề đặt ra của con người. Từ đó nước Mĩ trở nên khiêm nhường hơn, có trách nhiệm hơn, thân thiện hơn, nhân văn hơn với thế giới. Từ đó nước Mĩ có Ted Turner, Bill Gates… là những ông Bụt đến với những người nghèo khó khắp thế giới.

– Họa của Việt Nam. Không có lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam, không có khí phách của lịch sử Việt Nam, không thể có chiến thắng trong cuộc chiến tranh chống Mĩ. Thắng Mĩ ở thế kỉ 20 là trang tiếp theo của trang sử thắng Nguyên Mông ở thế kỉ 13 trong pho sử vàng Việt Nam. Chiến thắng đó đầu tiên và cuối cùng thuộc về nhân dân Việt Nam và lịch sử Việt Nam. Nhưng những người lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam đã ôm toàn bộ chiến thắng đó về cho đảng Cộng sản, qui chiến thắng đó về cho chiến thắng của chủ nghĩa Mác Lê nin, chiến thắng của chủ nghĩa xã hội, chiến thắng do có sự lãnh đạo tài tình của đảng Cộng sản! Họ càng ngạo mạn, hợm hĩnh, hung hăng, càng ngộ độc học thuyết Mác Lê nin chỉ có giai cấp, không có dân tộc, càng ngộ độc chủ nghĩa xã hội xóa bỏ quyền làm chủ của cá nhân, càng dấn sâu vào cuộc đấu tranh giai cấp sắt máu với chính đồng bào ruột thịt của mình!

Giam cầm, đầy đọa thân xác, xỉ nhục nhân phẩm hàng triệu đồng bào ruột thịt! Những năm dài đằng đẵng bị đày đọa thân xác trong những trại cải tạo khắc nghiệt có thể chịu đựng được! Nhưng trở về nhà, hàng tuần phải trình mặt, khai báo với những người nhân danh chính quyền mà thiếu văn hóa giao tiếp lại thừa sự hợm quyền, khinh rẻ con người, nhiều người có lòng tự trọng không chịu đựng nổi sự hành hạ nhân phẩm đó! Một nửa dân tộc Việt Nam không theo ý thức hệ Cộng sản nhưng vì yêu nước mà ở lại với đất nước để đóng góp xây dựng đất nước nhưng lòng yêu nước đó không được nhìn nhận! Những người Cộng sản độc quyền thống trị xã hội cũng độc quyền luôn lòng yêu nước! Không có chỗ đứng trong xã hội Cộng sản, không được quyền yêu nước Việt Nam máu thịt của mình, nhiều người lại phải gạt nước mắt, rời bỏ quê hương, vượt biển di tản, lưu vong xứ người! Người không ra đi được thì phải lưu vong ngay trên quê hương, đất nước mình! Sự ngộ độc học thuyết Mác Lê nin của những người Cộng sản đã đưa dân tộc Việt Nam vào một tai họa lớn, một bi kịch chưa từng có trong lịch sử Việt Nam, bi kịch của những số phận cá nhân: Những tâm hồn lưu vong! Bi kịch của cả dân tộc: Một dân tộc li tán!

Ở hội nghị Genève năm 1954, những người lãnh đạo Cộng sản Trung Hoa ép những người lãnh đạo Cộng sản Việt Nam phải chia cắt đất nước Việt Nam! Đất nước Việt Nam là một! Dân tộc Việt Nam là một! Dù bị thứ chính trị phản dân tộc chia cắt đất nước song dân tộc Việt Nam sớm muộn cũng biết tự thống nhất đất nước trở lại. Những người Cộng sản chia đôi đất nước Việt Nam rồi chính họ lại thống nhất đất nước bằng núi xương, sông máu nhân dân Việt Nam! Thế mà bộ máy tuyên truyền khổng lồ của đảng Cộng sản đã chạy hết công suất kể công thống nhất đất nước với nhân dân! Đất nước vừa thống nhất, những người Cộng sản Việt Nam lại gây cho dân tộc Việt Nam nỗi đau li tán dân tộc! Đất nước bị chia cắt, hai mươi năm sau đã thống nhất trở lại! Nỗi đau li tán dân tộc gần bốn mươi năm đã qua rồi vẫn còn nguyên đó!

Ở các nước xã hội chủ nghĩa, đảng Cộng sản độc quyền thống trị đã quá lâu, đã ngấm men say quyền lực! Quyền lực không bị giám sát trong thời gian dài cả nửa thế kỉ đã tha hóa triệt để, các nhà nước Cộng sản trên thế giới đều độc tài, tham nhũng, mất dân chủ nghiêm trọng, cản trở phát triển, bóp nghẹt cuộc sống! Đã quá giới hạn chịu đựng, nhân dân các nước Cộng sản, từ Liên Xô, ngọn cờ lãnh đạo thế giới Cộng sản, chiếc nôi cách mạng vô sản, thành trì của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, đến các nước Cộng sản Đông Âu đã đi đầu xóa bỏ sự độc quyền thống trị xã hội của đảng Cộng sản! Học thuyết Mác Lê nin đã thực sự phá sản! Chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ trên phạm vi thế giới! Đó là tiếng chuông thức tỉnh, là cơ hội vàng quí giá cho những người lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam giải độc khỏi chủ nghĩa Mác Lê nin lấy giai cấp phủ nhận dân tộc, thoát khỏi đấu tranh giai cấp thảm khốc. Thời đại giục giã, nhân dân chờ đợi, lịch sử Việt Nam, văn hiến Việt Nam đòi hỏi những người Cộng sản Việt Nam phải làm được điều đó: Giã từ giai cấp hư vô, trở về với cội rễ dân tộc.

Khốn khổ thay, trước nguy cơ mất độc quyền thống trị xã hội, lại coi sự thống trị xã hội của đảng Cộng sản cao hơn hạnh phúc nhân dân, cao hơn sự mất còn của dân tộc, những người lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam vội vàng sang Trung Hoa, đến Thành Đô gặp lãnh đạo đảng Cộng sản Trung Hoa tìm kiếm liên minh với kẻ vừa tung đại quân tràn qua biên giới bắn giết dân ta, chiếm đất của ta! Với Liên minh Thành Đô bất bình đẳng và đầy tủi nhục, đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa dân tộc Việt Nam trở lại thời kì bị phụ thuộc chặt chẽ, bị khống chế, áp đặt bởi những kẻ bành trướng Đại Hán luôn mưu đồ thôn tính Việt Nam!

Khốn khổ thay, dân tộc Việt Nam bé nhỏ chưa thoát khỏi nền sản xuất nông nghiệp thô sơ, vẫn là con người nông nghiệp nặng chữ tình, thiếu lí trí của con người công nghiệp, chưa biết đến quyền con người của xã hội công nghiệp văn minh, xã hội công dân, đã bị học thuyết Mác Lê nin sai lầm, cực đoan kìm hãm, bị đấu trường đấu tranh giai cấp liên tiếp đánh tan rã dân tộc, nay lại bị trói buộc bởi một Liên minh Thành Đô đầy hiểm họa!

Liên minh Thành Đô là liên minh một chiều này, chỉ có kẻ yếu cần liên minh, kẻ mạnh chỉ lợi dụng liên minh để đòi hỏi, thỏa mãn! Đại Hán luôn đòi hỏi, luôn lấn tới và chúng ta luôn phải nhân nhượng, luôn phải nhận phần thua thiệt, cay đắng để Đại Hán hài lòng.

Để Đại Hán hài lòng, chúng ta đã phải nhượng bộ cho Đại Hán lấn chiếm cả đất đai thiêng liêng của tổ tiên ở biên cương phía Bắc!

Để Đại Hán hài lòng, chúng ta phải chấp nhận rủi ro, nguy nan, bất ổn, cho họ đưa đạo quân đông đảo vào Tây Nguyên khai thác bô xít, tài nguyên lẽ ra chúng ta để dành cho con cháu ta! Đạo quân Đại Hán ở Tây Nguyên, thế đất hiểm yếu khống chế cả bán đảo Đông Dương. Khi chưa đến giờ G khởi sự, họ là công nhân cầm cuốc, cầm xẻng. Nhưng khi Đại Hán động binh, họ sẽ thay chiếc cuốc bằng khẩu súng, hiện nguyên hình là đạo quân mai phục, nằm vùng, là mũi lê thúc vào một bên sườn cơ thể Việt Nam mà mũi lê ở sườn bên kia là những chiến hạm Đại Hán vẫn thường trực có mặt ở biển Đông!

Để Đại Hán hài lòng, chúng ta phải câm lặng khi tàu chiến của họ bắn giết dân ta trên biển của ta!

Để Đại Hán hài lòng, cơ quan thông tấn của nhà nước ta phải xỉ nhục cả lòng yêu nước của nhân dân ta! Đưa tin về cuộc biểu tình suốt buổi sáng chủ nhật của cả ngàn người Việt Nam bừng bừng phẫn nộ trước cơ quan đại diện Đại Hán lên án tàu Đại Hán vào biển Việt Nam gây hấn chỉ là “cuộc tụ tập đi ngang qua” là sự xúc phạm lòng yêu nước của nhân dân!

Để Đại Hán hài lòng, nhà nước ta phải huy động lực lượng lớn công an, huy động cả thiết bị phá sóng điện thoại, sử dụng cả ngón đòn bắt cóc của xã hội đen để giải tán cuộc biểu tình của người dân Việt Nam phản đối hành động gây hấn, khiêu khích của Trung Hoa!

Để Đại Hán hài lòng, hằng năm ngày giỗ hàng vạn đồng bào chiến sĩ ta bị bị lính Trung Hoa tràn qua biên giới giết hại trong cuộc chiến tranh do Trung Hoa phát động ngày 17 tháng hai, năm 1979, gần ngàn cơ quan truyền thông nhà nước ta câm lặng, không dám một lời, một chữ nhắc nhở, tưởng niệm!

Ôi chao, nhục nhã, ê chề quá! Cố giữ liên minh với sức mạnh bạo lực Trung Hoa làm điểm tựa cho đảng Cộng sản Việt Nam tồn tại, dân tộc Việt Nam phải chịu hết nỗi nhục này đến nỗi nhục khác rồi tất yếu dẫn đến tận cùng nỗi nhục là mất nước!

4. Ý CHÍ NHÂN DÂN VIỆT NAM

Chủ nghĩa xã hội cho những người lãnh đạo cấp cao có quyền hành vô hạn, lại lấy đi của người dân mọi quyền con người! Nhân dân Việt Nam là nạn nhân thê thảm nhất của chủ nghĩa xã hội! Nhân dân chỉ là công cụ để nhà nước vô sản sử dụng làm cách mạng, tiến hành chiến tranh và được sử dụng làm quần chúng cách mạng trong những cuộc đấu tranh giai cấp, những cuộc đấu tố, thanh trừng liên miên, bất tận! Người dân không có quyền tư hữu, không được quyền có tài sản riêng, cả tài sản vật chất và tài sản tư tưởng tinh thần! Nhà nước vô sản bao cấp, ban phát tem phiếu định suất ăn cho con người cơ thể, ban phát cả suất ăn cầm chừng cho con người văn hóa còi cọc!

Hơn nửa thế kỉ đảng Cộng sản xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nhưng trong thực tế, bằng việc làm, chưa bao giờ nhân dân Việt Nam chấp nhận chủ nghĩa xã hội! Khi những nhà lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam vừa hăm hở đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội thì những trí thức, nghệ sĩ hàng đầu có ngay tiếng nói Nhân Văn Giai Phẩm! Nhân Văn Giai Phẩm chính là phản kháng đầu tiên của trí thức nghệ sĩ không chấp nhận chính trị, tư tưởng, triết học của chủ nghĩa xã hội, không chấp nhận sự bao cấp, ban phát tư tưởng, là tiếng nói đòi tự do tư duy độc lập, đòi được tự do sáng tạo, thể hiện mình bằng trí tuệ và cá tính sáng tạo của mỗi người. Trí thức nghệ sĩ Nhân Văn Giai Phẩm dù bị nhà nước chuyên chính vô sản tù đày, tước quyền sáng tạo vẫn được nhân dân kính trọng, biết ơn, được lịch sử ghi công vì khát vọng được sống đúng mình, được thể hiện cái riêng mỗi người là khát vọng của mọi người có mặt trong cuộc đời, là khát vọng của nhân dân!

Những năm dài chủ nghĩa xã hội được thực hiện triệt để, hà khắc nhất, ngăn cấm ngặt nghèo tư nhân sản xuất kinh doanh, cũng là những năm dài người dân Việt Nam buôn lậu hăm hở nhất, sôi động nhất, quyết liệt nhất. Nhà nhà buôn lậu! Người người buôn lậu! Cán bộ đi công cán đều kết hợp mang hàng lậu! Những chuyến tàu ra Bắc vào Nam, những chuyến xe đò ngược rừng, xuôi biển, những chuyến bay nối Việt Nam với thế giới đều chở hàng lậu! Báo Tiền Phong của trung ương đoàn Thanh niên Cộng sản đã từng phanh phui vụ bà bí thư trung ương đoàn đi công cán ở Liên Xô về mang theo hàng lậu là nhiều cây thuốc lá Galant của Ấn Độ đang được tiêu thụ mạnh ở Việt Nam. Bằng buôn lậu, người dân lặng lẽ mưu sinh cải thiện đời sống khốn khó do chủ nghĩa xã hội mang lại, lặng lẽ giành lại quyền sơ đẳng của con người “mọi người sinh ra đều có quyền tư do và mưu cầu hạnh phúc” mà chủ nghĩa xã hội đã tước đoạt mất! Bằng buôn lậu, nhiều người trở nên giàu có, âm thầm làm giầu, âm thầm tích lũy tư bản! Toàn dân buôn lậu chính là toàn dân phản kháng, không chấp nhận nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa xã hội về kinh tế!

Thời kì chủ nghĩa xã hội hà khắc nhất, những nhà tư sản cũ do lịch sử để lại đã bị vô sản hóa, tài sản bị công hữu hóa, trong nhân dân vẫn xuất hiện những ông chủ mới, những nhà tư sản buổi sơ khai, những Trần Đức Thảo, những Nguyễn Văn Chẩn… Ông Trần Đức Thảo là bộ đội thời kháng chiến chống Pháp. Phục viên trở về, ông Thảo làm giầu bằng chế tạo ra chiếc máy sản xuất mặt kính đồng hồ thay thế cho mặt kính đồng hồ Poljot của Liên Xô hay bị rạn, mờ, xước. Ông Nguyễn Văn Chẩn làm giầu bằng sáng tạo ra dây chuyền công nghệ sản xuất lốp xe đạp khi cả nước nghèo khổ, cả nước đi xe đạp mà lốp xe đạp thì quá khan hiếm, đắt đỏ. Có tư liệu sản xuất, trở thành ông chủ tư nhân, tất nhiên bị chủ nghĩa xã hội trừng trị! Ông Thảo chối bỏ chủ nghĩa xã hội nghèo khồ quá sớm khi nó vừa quyết liệt thi thố ở Việt Nam và còn ngạo nghễ ngự trị khá lâu nữa nên cuộc đời ông Thảo mất hút vô tăm tích trong tù đày! Ông Chẩn bị tịch thu tài sản, nhà xưởng, đất đai và đi tù! Ra tù, vừa gặp thời đổi mới, ông Thảo vừa kiên trì khiếu nại đòi lại tài sản đã thất tán vừa tiếp tục tổ chức sản xuất vì đó là lao động chân chính và cuộc sống vẫn đang cần những chiếc lốp xe đạp do ông Chẩn sản xuất.

Và điều khủng khiếp nhất của chủ nghĩa xã hội là chuyên chính vô sản. Đảng Cộng sản sử dụng toàn bộ sức mạnh nhà nước, pháp luật, công an, quân đội, tòa án, nhà tù, cả sức mạnh văn hóa, dư luận, văn nghệ, báo chí, tuyên truyền . . . để bảo vệ sự thống trị xã hội của đảng Cộng sản! Sức mạnh đó được gọi là bạo lực chuyên chính vô sản! Hiến pháp mực đen giấy trắng cho người dân đầy đủ quyền con người, quyền công dân như công dân mọi nước tự do dân chủ trên thế giới nhưng bạo lực chuyên chính vô sản đã tước đoạt hết mọi quyền công dân mà Hiến pháp đã bảo đảm cho người dân! Công an muốn bắt ai thì bắt! Như công an thành phố Hồ Chí Minh thường xuyên xông vào nhà ở bắt bà Tạ Phong Tần ném lên ô tô chở về đồn công an, nhốt một buổi, một ngày lại tống ra khỏi đồn! Không lệnh bắt! Không lệnh tha! Như công an Hà Nội vô cớ bắt bác sĩ Phạm Hồng Sơn, bắt luật sư Lê Quốc Quân ở đường phố Hà Nội hôm 4. 4.2011! Tòa án xử không cần chứng cứ, không cần tranh tụng, không cần xét! Chỉ xử! Chỉ buộc tội rồi tuyên án! Như tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ hôm 4. 4. 2011! Cách xử đó là sự thú nhận rằng phiên tòa xử theo chỉ đạo của quyền lực và bản án đã có sẵn từ trước khi mở phiên tòa!

Tiêu cực xã hội tràn lan! Những phiên tòa méo mó vì sức mạnh quyền lực, vì sức mạnh đồng tiền! Dân đen xã hội chủ nghĩa không có quyền lực, không có tiền bạc, không có pháp luật bảo vệ, số phận vô cùng mong manh, bất an!

Nhân dân Việt Nam đã quá kinh hãi, ghê sợ chủ nghĩa xã hội! Hàng triệu người miền Bắc ồ ạt rời bỏ quê hương vào Nam, chạy trốn chủ nghĩa xã hội năm 1954. Hàng triệu người cả Bắc và Nam quyết liệt vượt biển chạy trốn chủ nghĩa xã hội sau năm 1975 là hình ảnh, là minh chứng của sự kinh hãi đó! Ý chí của nhân dân là giã từ chủ nghĩa xã hội ngoại lai, vay mượn, áp đặt để trở về với những giá trị truyền thống Việt Nam, trở về với triết lí nhân nghĩa Việt Nam: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân! (Nguyễn Trãi) Giã từ đấu tranh giai cấp sắt máu chia rẽ dân tộc, trở về củng cố khối đoàn kết dân tộc giữ lấy dải đất gấm vóc của tổ tiên đang bị tham nhũng trong nước tàn phá tan hoang, đang bị bành trướng Đại Hán được Liên minh Thành Đô rước về đang rập rình trước biển Đông, đang làm chủ Tây Nguyên, đang làm chủ những dải rừng đầu nguồn, đe dọa sự sống còn của dân tộc Việt Nam! Kiên trì chủ nghĩa xã hội để kiên trì sự thống trị xã hội của đáng Cộng sản là đi ngược ý chí nhân dân!

Chủ nghĩa xã hội cho những người lãnh đạo cấp cao của đảng Cộng sản Việt Nam quyền lực vô hạn, quyền lực không bị giám sát, thì đế quốc Cộng sản Trung Hoa là sự bảo lãnh cho quyền lực đó tồn tại, bảo lãnh cho những người lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam giữ vững quyền lực đó! Họ bảo lãnh không phải vì nghĩa tình đồng chí Cộng sản mà chỉ để họ thực hiện mưu đồ thôn tính Việt Nam! Chỉ vì quyền lợi ích kỉ của đảng, những người lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam duy trì chủ nghĩa xã hội! Lại vì quyền lợi ích kỉ của đảng, lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam thí bỏ lợi ích dân tộc đánh đổi lấy sự bảo lãnh của bành trướng Trung Hoa!

Mỗi lần nghe lãnh đạo đảng Cộng sản và lãnh đạo nhà nước Việt Nam thành kính nhắc lại lời lãnh đạo Đại Hán tán tỉnh, tâng bốc mối quan hệ với Việt Nam là Láng Giềng Hữu Hảo, Đồng Chí Tốt, người dân Việt Nam lại ngậm ngùi, tê tái như bị phản bội và càng âu lo cho vận nước.Những lời đường mật bất thường đó chỉ để ru ngủ những người cả tin quên đi lộ trình ăn cướp họ đang thực hiện với Việt Nam. Nhưng người dân Việt Nam không quên.

– Năm 1956. Lính Trung Hoa giả dạng dân đánh cá lên ở hai đảo nhỏ còn bỏ hoang không có quân đội Sài Gòn đóng giữ trong quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, đảo Phú Lâm (trong bản đồ quản lí Hoàng Sa của người Pháp, đảo này có tên là I. Boisee) và đảo Cam Tuyền (Robert). Lúc đó Sài Gòn đang phải lo đối phó với những cuộc chiến tranh phe phái. Hà Nội vừa hân hoan mời chào các đồng chí công nhân Trung Hoa vào khôi phục đường sắt Lạng Sơn – Hà Nội vừa ra rả tố cáo chính quyền Sài Gòn vi phạm hiệp định Genève. Không ai ngó ngàng đến núm đất thiêng liêng của tổ tiên ngoài biển Đông. Lá cờ đỏ năm sao vàng cắm trên hai hòn đảo trong quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam mà Việt Nam không nói gì, lính Trung Hoa liền ầm ầm đưa tàu chiến đến, đổ công binh lên xây dựng căn cứ quân sự kiên cố! Trung Hoa đặt được một chân vào quần đảo Hoàng Sa!

– Năm 1974, quân đội Sài Gòn đang khốn đốn trước sức tiến công của quân đội miền Bắc. Quân Sài Gòn đóng giữ trên quần đảo Hoàng Sa đã quá mỏng còn bị rút bớt về ném vào những trận đánh trong đất liền. Những cuộc đi đêm mặc cả với Mĩ cũng đã ngã ngũ, Trung Hoa liền đưa quân ra đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Hạm đội 7 của Mĩ ở Thái Bình Dương phớt lờ lời cầu cứu của quân đội Sài Gòn! Toàn bộ quần đảo Hoàng Sa lọt vào tay bành trướng Trung Hoa!

Năm 1979, bành trướng Trung Hoa đưa đại quân tràn qua toàn dải biên giới đánh Việt Nam. Cuộc chiến tổng lực kéo dài chưa đến một tháng nhưng những trận đấu pháo ác liệt, những trận tập kích đẫm máu của quân Trung Hoa vào những điểm cao hiểm yếu của ta ở Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang để cướp bằng được, kéo dài suốt mười năm!

Năm 1984, Trung Hoa dùng một lực lượng pháo binh và bộ binh áp đảo đánh chiếm điểm cao 1509 và điểm cao 1250 của Việt Nam ở xã Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên, tinh Hà Giang.

Năm 1988, Trung Hoa đánh chiếm bãi Garma trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Năm 1999, Việt Nam kí hiệp định phân định biên giới đất liền với Trung Hoa. Trước đòi hỏi ngang ngược của Trung Hoa hoàn toàn không có cơ sở lịch sử nhưng những người lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh đạo nhà nước Việt Nam, để làm hài lòng bành trướng Trung Hoa, vẫn cắt nhượng cho Trung Hoa một nửa thác Bản Giốc, cắt cho Trung Hoa cả trăm mét chiều sâu biên giới ở Lạng Sơn! Đặc biệt đau xót và nguy hiểm là với hiệp định biên giới năm 1999, mỏn đất chiến lược quân sự và mỏn đất thiêng của ngàn đời lịch sử Việt Nam, điểm cao 1509 và điểm cao 1250 ở xã Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang đã chính thức thuộc về Trung Hoa! Đau xót vì cuộc chiến đấu giữ điểm cao 1509 diễn ra ác liệt suốt thời gian dài trong năm 1984, giặc tập trung lớn pháo binh, cấp tập nhiều ngày, dùng biển người tràn lên đánh chiếm. Ta phải nhiều lần giành lại. Chỉ một trận đánh trong tháng sáu, năm 1984, điểm cao 1509 đã thấm đẫm máu gần bốn ngàn liệt sĩ Việt Nam! Mảnh đất của máu Việt Nam, của hồn Việt Nam, của lịch sử Việt Nam, nay đã thuộc Trung Hoa rồi! Nguy hiểm vì điểm cao 1509 không những kiểm soát chặt che con đường số Hai, khống chế, uy hiếp trực tiếp thị xã Hà Giang mà chiếm được điểm cao 1509, lập tức Trung Hoa đặt ở đó cụm đài phá sóng, gây nhiễu vô tuyến điện cực mạnh. Khi cụm đài này hoạt động sẽ làm tê liệt toàn bộ hệ thống vô tuyến điện cả Bắc Việt Nam, kể cả sóng vô tuyến điện của hàng không dân dụng! Có thể coi hiệp định biên giới kí với Trung Hoa năm 1999 là hiệp định bán đất của tổ tiên Việt Nam hôm qua và bán máu của đồng bào chiến sĩ Việt Nam hôm nay!

Láng giềng hữu hảo đó! Đồng chí tốt đó! Không bị mờ mắt bởi chiếc ghế quyền lực, nhân dân Việt Nam biết rõ bộ mặt của thứ láng giềng đó! Không bị lú lẫn bởi những lợi ích phe nhóm, nhân dân Việt Nam biết rõ tâm địa của thứ đồng chí đó! Ý chí của nhân dân Việt Nam là trân trọng, học hỏi nền văn hóa rực rỡ Trung Hoa, hòa hiếu với nhân dân Trung Hoa nhưng quyết không khuất phục, không liên minh với thế lực bành trướng Đại Hán Trung Hoa! Mang lợi ích dân tộc ra làm quà lấy lòng Đại Hán bành trướng tạo ra mối liên minh với Đại Hán Trung Hoa để giữ được vị trí thống trị xã hội của đảng Cộng sản Việt Nam là đi ngược với ý chí nhân dân Việt Nam!

Thực tế diễn ra những năm tháng qua và đang diễn ra hôm nay trên đất nước ta là bằng chứng hiển nhiên, không thể phủ nhận: Đảng Cộng sản Việt Nam đang đi ngược ý chí nhân dân Việt Nam! Quyền lực dù mạnh đến đâu cũng chỉ nhất thời! Nhân dân là mãi mãi. Thành ngữ dân gian: Quan nhất thời, Dân vạn đại! Quyền lực đi ngược ý chí nhân dân, quyền lực đó không thể bền vững.

Tiêu diệt lòng dân!

CA2.jpg
Người Sài Gòn (danlambao)Nếu nhà nước không cho nhân dân thể hiện lòng yêu nước thì làm sao nhà nước biết được ý dân để cùng nhau một lòng gìn giữ non sông trước hiểm họa xâm lăng của giặc phương Bắc đầy gian trá, làm sao có hội nghị Diên Hồng để giang sơn còn đến ngày nay. Làm sao giặc phương Bắc thấy tinh thần bất khuất của dân ta mà hoảng sợ, bớt hung hăng dẹp đi ý đồ bành trướng vì chúng biết cái giá chúng phải trả cho bao đời ông cha của chúng là vô cùng to lớn, vô cùng nhục nhã và vô cùng thất bại.

Các báo đài VN đồng loạt đưa tin hệt nhau không sai một chữ “Thực tế sáng 5-6 có một số người đã tự phát tụ tập, đi ngang qua Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội và Tổng lãnh sự quán Trung Quốc ở TP.HCM để thể hiện tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc”

“Thực tế sáng 5-6 có một số người đã tự phát tụ tập,” Đọc nghe sao mà bức xúc như thể ai đó xa lạ đang có hành vi “tụ tập” vi phạm pháp luật. Rồi lại “đi ngang qua Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội và Tổng lãnh sự quán Trung Quốc ở TP.HCM”như thể vô tình không cố ý làm điều đó, lời văn như đính chính như giải bày của kẻ dưới với bề trên là mình vô can ai đó tự phát chứ không phải ý của tôi, của chúng tôi.

Nhưng cuối cùng thì lời văn lại tự khẳng đinh “để thể hiện tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc” Hóa ra ai đó chính là nhân dân VN, họ đang làm một điều hiển nhiên từ hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước là “để thể hiện tinh thần yêu nước”. Và một điều hiển nhiên là họ vô tội.

Thế thì tại sao đầu câu lại chối bỏ ai đó là công dân của nước VN ta, lại còn cho ai đó là “tụ tập” như một hành vi phạm pháp. Tại sao không nhận ai đó là nhân dân của mình, không công khai hành động của ai đó là “yêu nước” mà lại vòng vo dẫn dắt người đọc như đang xem một vụ gây rối của bọn phá hoại, của kẻ thù !?. và tại sao cứ nhấn mạnh đầu câu ba chữ “Nhũng người này”? “Nhũng người này” ?

Có lẽ các lãnh đạo cấp cao đang làm “chính trị”, đang kiên cường nhẫn nhục để duy trì hòa bình, tránh một cuộc chiến tranh chỉ đem lại mất mát hy sinh, hoặc đang có một diệu kế nào đó mà dân ngu cu đen thì không tài nào hiểu được, “tụ tập” tụ năm tụ ba la ó chỉ làm mích lòng hàng xóm chẳng ích gì chỉ thêm “rách việc”. Nói như Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh:

"Đây là hành động tự phát của người dân. Cuộc tuần hành, theo tôi được biết, đã diễn ra bình tĩnh, trật tự, không cản trở giao thông và cũng không mang các biểu ngữ mang tính kích động. Nhưng theo tôi là không nên, dù đây bắt nguồn từ lòng yêu nước. Người dân phải tin rằng Nhà nước sẽ có giải pháp, có đủ trách nhiệm để vừa giữ chủ quyền lãnh thổ vừa duy trì hòa khí và quan hệ với Trung Quốc".

Ông Vịnh đã đãm bảo với nhân dân rằng Nhà Nước đủ khả năng bảo vệ tổ quốc mà không cần nhân dân thể hiện lòng yêu nước. Mọi việc có Nhà Nước lo, nhân dân cứ sinh sống vô tư dù biển đảo có sóng to gió lớn, biên cương thác, núi có ngã nghiêng…?

Tôi tự hỏi nếu nhà nước không cho nhân dân thể hiện lòng yêu nước thì làm sao nhà nước biết được ý dân để cùng nhau một lòng gìn giữ non sông trước hiểm họa xâm lăng của giặc phương Bắc đầy gian trá, làm sao có hội nghị Diên Hồng để giang sơn còn đến ngày nay. Làm sao giặc phương Bắc thấy tinh thần bất khuất của dân ta mà hoảng sợ, bớt hung hăng dẹp đi ý đồ bành trướng vì chúng biết cái giá chúng phải trả cho bao đời ông cha của chúng là vô cùng to lớn, vô cùng nhục nhã và vô cùng thất bại.

Và nếu nhà nước không cho nhân dân thể hiện lòng yêu nước thì bọn tham quan nhu nhược lại càng lộng hành, ngông cuồng ra sức đàn áp hãm hại những ai không quy thuận để bám giữ quyền lực, của cải và chính chúng sẽ là những Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc, Hoàng Văn Hoan thời nay sẵn sàng bán rẻ tổ quốc khi có ngoại xâm.

Tôi tự hỏi nếu muốn nhân dân là những con cừu thì khi vài chục bộ óc của đỉnh cao quyền lực mà sai lầm (chứ chưa nói thất bại) thì nhân dân trở tay sao kịp!.

Tôi tự hỏi thế thì nhân dân ta khỏe re, cứ lo kiếm tiền, sáng làm chiều nhậu, tối ôm vợ ngũ khỏi dính dáng ưu phiền chi mấy cái Hoàng Sa -Trường Sa mà có ngày mang họa như ”một số người”.

Tôi tự hỏi tiếng Việt ta vô cùng phong phú, nếu vì ngoại giao vì "duy trì hòa khí và quan hệ với Trung Quốc" thì thiếu gì cách viếtvẫn giữ được lòng kính trọng và nhiệt huyết của người dân, vẫn bảo đảm được "duy trì hòa khí và quan hệ" mà còn là lời cảnh báo khiến kẻ thù phải do dự “uốn lưỡi 7 lần trước khi nói, đi trăm bước trước khi làm”. Thế mới thấy Nam Quốc Sơn Hà (Lý Thường Kiệt), Hịch Tướng Sĩ (Trần Hưng Đạo), Bình Ngô Đại Cáo (Nguyễn Trãi), Chiếu Xuất Quân (Hoàng Đế Quang Trung) mới đáng bậc văn chương thần thánh. Còn kẻ thảo văn ngày nay sao ngu dốt ươn hèn xem dân như cỏ rác.

Sức dân là sức trời không được lòng dân thì họa mất nước là điều báo trước. Hồ Quý Ly cũng yêu nước chống ngoại xâm nhưng cũng vì không đoàn kết được lòng dân mà Vương triều phải sụp đổ, đẩy nhân dân vào cảnh nước mất nhà tan.

Bài học ngàn năm ai cũng biết chẳng lẽ chỉ có mìmh “ta” chưa biết và cũng có lẽ ta chưa biết rằng báo chí Việt Nam chỉ giỏi Chuyên – Môn Lề – Phải.

Traitimxanh-sig.png

Quyền biểu tình

Đại Nghĩa

v6+copy.jpg
Đại Nghĩa (Sưu tầm) – Ở những đất nước có độc lập, có tự do thì biểu tình là quyền“ bày tỏ tình cảm của một số đông người ở chốn công cộng”(Mai Thái Lĩnh) đã được Hiến pháp của nước CHXHCNVN năm 1992 bảo vệ theo Điều 50- và 69. Tuy nhiên cho đến nay đã gần 20 năm mà quyền ấy vẫn còn chưa được công nhận trên thực tế, do đó luật sư Hà Huy Sơn, nêu lên thắc mắc về sự“ thành thật” của Hiến pháp nên ông đã viết bài“ Nói không thật, làm không thật, đất nước đi về đâu?”

“ Hiến pháp của nước CHXHCNVN hiện nay đã nói thật chưa? Nếu căn cứ vào nội dung một số điều cơ bản của nó mà tôi một lần nữa dẫn ra sau đây (vì điều này nhiều người, nhiều lần đã dẫn ra) thì bản Hiến pháp nói không thật…

“ Điều 69: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”.

“ Văn hóa“ cá gỗ” không thể thay cho văn hóa“ cá thật”. Sao lại ban hành các văn kiện dưới Hiến pháp để ngăn cấm, để trói, để bịt, để treo mãi những quyền của công dân đã được ghi trong Hiến pháp như đã nêu trên. Rồi dựa vào đó, sử dụng công cụ“chuyên chính” triệt để,“ mạnh tay” quyết để cho tự do của nhân dân, tự do của dân tộc mãi chỉ là con“ cá gỗ”. (Bauxite Việt Nam online ngày 28-3-2011)

Cùng một nhận định như trên, nguyên thẫm phán tòa án nhân dân tối cao Trần Lâm từ Hải Phòng xác nhận trong bài hội luận với luật sư Trần Thanh Hiệp từ Pháp do phóng viên Trà Mi đài RFA điều hợp:

“Ở Việt Nam quy định như thế trên giấy tờ điều có, nhưng đến khi làm thì người ta không làm đúng như trên giấy tờ”. (RFA online ba ngày 5-6-7 tháng 10-2007)

Và ông cũng nhắc lại lời của bà luật sư Ngô Bá Thành:

“Ở Việt Nam có một rừng luật, nhưng khi thực hiện lại áp dụng luật rừng”.
(RFA online ngày 28-1-2009)

Qua ý kiến của những vị luật gia thì chúng ta thấy rằng Hiến pháp của Quốc hội CHXHCNVN không được nhà nước Việt Nam tôn trọng, do đấy mà ông nguyên bộ trưởng bộ Tư pháp Nguyễn Đình Lộc khi trả lời phỏng vấn của Pv Khiết Hưng, báo Tuổi Trẻ, ông nói:

“ Chúng ta phát triển qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có tính khác nhau nhưng Hiến pháp thường bị quên. Khi thông qua luật không đúng với tinh thần Hiến pháp thì không ai“ nhớ” đến Hiến pháp. Như thế mới thấy tinh thần bảo hiến tôn trọng Hiến pháp của Việt Nam chưa có truyền thống”. (Tuổi Trẻ online ngày 10-10-2007)

Vì những thắc mắc nêu trên mà luật sư Trần Vũ Hải đã viết thư đề nghị Ủy Ban Thường vụ Quốc hội giải thích Điều 69 Hiến pháp về Quyền biểu tình, bức thư viết xin trích:

“ Với tư cách công dân của nước CHXHCNVN, tôi xin kiến nghị UBTVQH thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình theo khoản 3, Điều 91 của Hiến pháp 1992 “ giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh”. Cụ thể, tôi đề nghị UBTVQH giải thích Điều 69-Hiến pháp 1992 “ công dân có quyền …biểu tình theo quy định của pháp luật”.

“Theo quy định của Điều trên và phù hợp với Điều 50-HP 1992, biểu tình là quyền công dân cơ bản (quyền con người về chính trị), được tôn trọng ở Việt Nam”. (Bauxite Việt nam online ngày 29-6-2011)

Người dân Việt Nam quá phẫn nộ với chế độ cộng sản trị trên quê hương nầy trên sáu mươi năm qua, biết bao là khủng bố, biết bao là áp bức khiến người dân bao phen muốn“ biểu tình” để tỏ sự câm phẫn và nói lên tiếng nói của nguyện vọng, tuy nhiên với sự đàn áp dã man của cộng sản những tiếng nói của nhân dân bị dập tắc trong các phong trào của Dân Oan biểu tình đòi lại đất mà đảng CSVN nhân danh nhà nước đã cướp của nhân dân từ mấy chục năm nay không giải quyết, trong một lần đàn áp dân Oan qua lời kể của vị linh mục khả kính Phan Văn Lợi hiện ở tại Huế phát thanh trên đài Little Saigon ngày 22-7-2007:

“Đảng CSVN đã mở đầu việc thực thi lời hứa nhân quyền sau chuyến Mỹ du của Nguyễn Minh Triết bằng cuộc đàn áp đẫm máu dân oan, Quốc hội CSVN khóa 12 đã mở đầu cho nhiệm kỳ của mình bằng việc đứng trơ mắt nhìn các đồng bào cử tri bị hành hạ như súc vật…

“ Và rồi, sau 27 ngày với khí thế đấu tranh sôi sục, giữa bao mong mỏi và hổ trợ của đồng bào trong lẫn ngoài nước, nhưng cũng trong vòng vây của lũ chó săn công cụ, sự im hơi lặng tiếng của đám bồi bút nô ngôn, một Thiên An môn Việt nam đã bùng nổ trong đêm ngày 19-7-2007.

“ Xe tăng đã nghiến nát những con đường bao quanh Văn phòng 2 Quốc hội CS. Hơi cay và vòi rồng đã tỏa khắp khu vực phường Phú Nhuận. Tiếng roi điện còn nghe vun vút trong không gian ở ngã ba Hồ văn Huê. Tiếng thét gào của đoàn dân khiếu kiện vẫn vang dội khắp thành phố Sài Gòn, lan cả Việt nam và thấu đến Tiểu Sài Gòn này. Máu đỏ của đồng bào vô tội còn vươn trên cành cây kẻ lá đường Hoàng Văn Thụ, trôi theo làn nước tẩy uế của vòi rồng, chảy vào tận quả tim chúng ta và làm cho tâm hồn chúng ta sôi sục”. (Đối Thoại online ngày 28-7-2007)

Vào năm 2008 một phong trào biểu tình chống Trung quốc xâm lược đã bị nhà cầm quyền CSVN đàn áp thẳng tay. Họ đã khủng bố, đánh đập bắt giam những người đi biểu tình chống ngoại xâm như Nguyễn Hoàng Hải, Nguyễn Vũ Hùng, Nguyễn Xuân Nghĩa, Phạm Thanh Nghiên và còn nhiều… nhiều người nữa hiện còn đang ngồi trong bốn vách tường ô nhục của CSVN trong khi ngoài biển quân giặc đang hoành hành. Cái điều đáng nói là sau khi làm đơn xin tổ chức biểu tình không cho, cô Phạm Thanh Nghiên ngồi trong nhà tọa kháng vẫn bị công an xông vào bắt giam. Ôi, có cái nhà nước nào như thế không!?

Trong khi trong Hiến pháp có cả những Điều 50, Điều 69 nói rằng nhân dân có quyền biểu tình thì ông nhà nước lại bảo“ không” trong một văn thư không dám dùng chữ biểu tình mà gọi là tập trung đông người hoặc là những cuộc biểu tình của dân oan thì gọi là khiếu kiện đông người, ô hô! trò chơi chữ nghĩa:

“ UBND TP Hà nội: Văn bản trả lời số 148/TB-UBND…

1-Không cho phép tiến hành tập trung đông người (biểu tình) ở nơi công cộng theo đơn đề ngày 14 tháng 6 năm 2008 của bà Phạm Thanh Nghiên, ông Vũ Cao Quận, ông Nguyễn Xuân Nghĩa…

2- Mọi hành vi cố tình tiến hành các hoạt động tập trung người trái phép (biểu tình) hoặc vi phạm quy định của pháp luật về bảo đảm trật tự công cộng đều bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật”. (Đối Thoại online ngày 3-7-2008)

Để phản đối Trung cộng tổ chức rước đuốc Thế vận ngang qua đảo Hoàng Sa nhà báo Nguyễn Hoàng Hải (Blogger Điếu Cầy) và các bạn đã mang biểu ngữ đứng biểu tình trước tiền đình nhà hát. Nguyễn Hoàng Hải đã bị kết án 30 tháng tù về tội vu vơ, thế rồi khi mản hạn vẫn không thả mà lại“ tự do” nhốt tiếp:

“Ông Hải và các bạn đã tổ chức cuộc biểu tình trước nhà hát TP Sài Gòn, mang theo biểu ngữ 5 chiếc còng và các câu“ Hoàng Sa là của Việt Nam”…”
(Thời Luận ngày 12-9-2008)

Nhà thơ Trần Mạnh Hảo vì quá bức xúc trong việc biểu tình chống giặc mà bị bắt nên ông làm một bài thơ rất là thống thiết:

“ …Tuổi trẻ mít tinh
Đả đảo Trung quốc xâm lược!
Sông Bạch Đằng tràn lên phố biểu tình
Sông Bạch Đằng bị bắt
ải Chi Lăng theo tuổi trẻ xuống đường
ải Chi Lăng bị bắt
gò Đống Đa nơi vùi xương giặc
sẽ bị bắt nếu biểu tình chống giặc!

Có nơi nào trên thế giới này
Như Việt Nam hôm nay
Yêu nước là tội ác
biểu tình chống ngoại xâm bị“ nhà nước”bắt?”
(RFA online ngày 24-1-2008)

Ngày 6-5-2011, sau khi xảy ra vụ 3 tàu hải giám của Trung cộng xâm phạm thềm lục địa Việt nam cắt cáp tàu thăm dò dầu khí Bình Minh 2 và quấy rối tàu Viking 2, nhân dân Việt Nam đã hết sức phẫn nộ ồ ạt xuống đường chống quân Trung cộng trước tòa đại sứ của chúng ở Hà Nội và tòa tổng lãnh sự ở Sài gòn. Lần biểu tình đầu tiên ở Sài Gòn có hàng ngàn người tham dự, nhưng rồi vì sự bủa vây “ cản mũi” của bọn công an chìm, nổi nên số tham dự càng ngày càng thưa thớt, thậm chí những lần sau Sài Gòn không còn tổ chức được, vì:

“ Buổi sáng Chủ nhật ngày 19 tháng 6, buổi sáng ngày dân mạng Việt Nam kêu gọi cho một cuộc tuần hành ôn hòa tại Sài Gòn, trời nắng đẹp rực rỡ như đón một mùa xuân. Tiếc thay, đó là một mùa xuân không thể đến ở thành phố có truyền thống dân chủ và tranh đấu nhất Việt nam…

“ Vẫn như thường lệ, ngành an ninh Việt nam đã sử dụng hàng trăm nhân viên để bố ráp mọi thứ cho ngày Chủ nhật này. Tất cả các trí thức, văn nghệ sĩ, sinh viên…v.v đều bị gọi lên, hạch sách, hăm dọa, cảnh báo. Các nhân vật như Kim Duy, Phan Nguyên…v.v tin tức từ Facebook cho biết họ bị công an đến nhà làm khó dể, thậm chí làm áp lực với người thân trong gia đình về chuyện đi biểu tình”. (RFA online ngày 19-6-2011)

Sau những vụ Trung tặc côn đồ quấy phá tàu thăm dò dầu khí của ta trên biển khiến dư luận nhân dân phẫn nộ biểu tình chống đối thì đại tướng bộ trưởng Quốc phòng CSVN Phùng Quang Thanh tiếp đại sứ Trung cộng Tôn Quốc Tường phát ngôn như sau:

“ Coi trọng quan hệ đoàn kết, hữu nghị với Trung quốc trên cơ sở 16 chữ vàng: láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lầu dài, hướng tới tương lai”…

“ Lời khẳng định của tướng Thanh được đưa ra sau những cuộc biểu tình liên tiếp phản đối Trung quốc gây sự với Việt Nam trong vùng được coi là đặc quyền kinh tế của quốc gia thành viên ASEAN này. Cả thảy năm cuộc biểu tình đã diễn ra và 16 chữ vàng từng được một số thành viên của cộng đồng mạng biến thành “láng giềng khốn nạn, cướp đất toàn diện, lấn biển lâu dài, thôn tính tương lai”. (BBC online ngày 7-7-2011)

Nhà báo Phạm Đình Trọng đã nói rõ mục đích của những cuộc biểu tình và đã bị đàn áp như thế nào qua bài “ Không thể đi ngược ý chí nhân dân”, ông viết:

“ Người dân Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh phẫn nộ biểu tình trước cơ quan đại diện nhà nước Trung Hoa không phải chỉ vì hành động mang rõ bản chất xâm lược, thôn tính của những chiến hạm Trung Hoa gỉa dạng tàu dân sự, tàu đánh cá, tàu giám sát biển mà còn vì ứng xử nhu nhược đến tủi nhục làm mất thể diện quốc gia, làm nhục ý chí dân tộc của các cơ quan chức năng nhà nước Việt Nam!…

“ Nhân dân biểu tình bộc lộ ý chí độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ bị công an nổi công an chìm rải đầy phố, dùng trang bị kĩ thuật, dùng số đông áp đảo, dùng võ thuật nghiệp vụ, áp đảo, chia tách, cô lập, quây bắt như quây bắt tội phạm! Một đám công an chìm xúm lại quây bắt thanh niên mặc áo đỏ đi đầu đoàn biểu tình như bầy sói xâu xúm lại cắn xé con nai bị tách khỏi đàn! Một đám công an khác túm kéo anh thanh niên mặc áo trắng làm áo anh bị lột khỏi người rồi họ nắm hai chân, xốc hai nách khiêng anh đi như ngày tết người ta khiêng lợn đi chọc tiết! Một công an chìm gân cốt, quắp ngang người, nhấc bổng anh thanh niên biểu tình như diều hâu quắp gà con!…” (DânLàmBáo online ngày 8-7-2011)

Bức ảnh được phổ biến rộng rãi trên các phương tiện truyền thông là hình ảnh của một thanh niên tham dự biểu tình bị“ công an kẹp nách đem đi” mà nhà văn Phạm Đình Trọng nói ở trên, hãy nghe cậu ấy kể:

“ Tôi Phan Nguyên, là người bị bắt (các bạn có thể nhìn thấy tôi trong bức ảnh nóng nhất ngày 12-6-2011) trông như con vật giữa thế kỷ 21 này. Vào buổi sáng 12-6 tôi cùng đoàn biểu tình tuần hành qua nhà thờ Đức bà, bên phía công viên đối diện hình như xảy ra vụ“bắt bớ”…

“ Tôi bị đưa vào Ủy ban nhân dân Quận 1 trên đường Lê Duẩn, tại đây tôi bị đẩy vào một góc và bị ăn 2 cú lên gối (chỉ bị đau tay thôi, rất may, hi), lại một lần thất KINH!” (Đàn chim Việt online ngày 13-6-2011)

Chính quyền thì đã như thế nhưng còn một trường đại học, nơi đào tạo những thanh niên ưu tú bảo vệ đất nước mai sau còn tệ hại hơn là đã ra văn thư cấm đoán sinh viên đi biểu tình chống giặc. Họ đã làm một việc trái với chức năng của một “ kỹ sư tầm hồn” và còn dám ngang nhiên chà đạp lên Hiến pháp của quốc gia. Ngày xưa khi cộng sản còn đang đấu tranh giành chánh quyền thì họ thường xúi giục học sinh, sinh viên biểu tình chống chính phủ, ngày nay khi họ nắm được chính quyền rồi thì họ lại sợ học sinh, sinh viên biểu tình chống quan thầy của họ và chống cả chính họ nữa. Vì thế cho nên họ lại dùng biện pháp cấm đoán sinh viên như trường Đại học Công nghiệp thành phố Sài Gòn đã ra văn thư:

“ Kính gửi: Các đơn vị trong toàn trường.

….Ban giám hiệu chỉ đạo một số việc như sau:

– Đoàn thanh niên phổ biến đến tất cả các cơ sở đoàn yêu cầu HSSV không tham gia vào việc biểu tình ngày 5-6-2011.
– Phòng công tác chính trị bám sát diễn biến trong HSSV toàn trường, báo cáo BGH nếu có những thông tin ảnh hưởng an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội liên quan đến sinh viên nhà trường.

– Sau khi đã có thông báo này, các đơn vị triển khai nhắc nhở sinh viên, đơn vị nào để sinh viên tham gia phải chịu trách nhiệm trước BGH. HSSV nào cố tình tham gia, nếu có tên trong danh sách mà công an gởi về trường, nhà trường sẽ kỷ luật ở mức cao nhất-đuổi học…”

(DânLàmBáo online ngày 3-6-2011)

Một luật sư trẻ với bầu nhiệt quyết đã từng lên tiếng chứng tỏ sự can đảm của mình trong đấu tranh đòi tự do dân chủ, luật sư Lê Trần Luật đã tra lời phỏng vấn của phóng viên Hiền Vy đài RFA nói lên cái cảm nghĩ của mình về Quyền biểu tình như sau:

“ Thật sự là người ta từ chối tất cả. Mình xin biểu tình ở một cơ quan hành chánh thì người ta không cho. Mình khiếu nại người ta không trả lời. Mình kiện ra tòa thì người ta nói không thuộc thẩm quyền, như vậy người ta cố tình từ chối cái quyền biểu tình hay không?

“ Bản chất của vấn đề nó nằm ở chỗ nhà cầm quyền không muốn cho người dân có quyền biểu tình này và tòa án nguỵ biện là không thuộc thẩm quyền của mình. Như vậy thì ghi nhận quyền biểu tình trong hiến pháp để làm cái gì?…

“Nếu như không tổ chức được cái quyền ghi trong Điều 69 đó thì hãy xóa bỏ điều đó, ghi như thế là một điều MỊ DÂN”. (RFA online ngày 9-6-2011)

Dân tộc Việt Nam đang khủng hoảng lãnh tụ

1Man2.jpg
MrLeNguyen (danlambao)Lời đầu tiên xin được thưa với quí ban đọc rằng: Tôi chưa bao giờ viết báo cũng như điểm VĂN của tôi khi còn đi học cũng chỉ vừa đủ để được lên lớp. Nhưng đứng trước hiểm họa mất nước của dân tộc.Tôi xin được mạo muội đưa ra một vài ý kiến sau mong quí bạn đọc tham khảo và cho ý kiến đóng góp.

Trong suốt những năm ĐCS tự cho mình là người đại diện và lãnh đạo đất nước đã được thực chứng sự yếu kém về mọi mặt của một nhà nước do ĐCS lãnh đạo. Như không thể kiềm chế được lạm phát, vật giá leo thang một cách chóng mặt khiến cho biết bao người dân lao động phải chịu cảnh lầm than cơ hàn. Bao sự bất công đàn áp nhân dân lao động. Hệ thống hiến pháp thì lỏng lẻo chỉ nhằm bảo vệ lợi ích của ĐCS. Không biết là do sự yêu kém hay do cố tình mà luôn có những khe hở để cho những kẻ có mối quan hệ với ĐCS trục lợi cho bản thân. Đương nhiên một phần của lợi ích này chảy vô túi của những đảng viên ĐCS. VINASHIN, boxit Tây Nguyên… là những ví dụ điển hình.

Bàn về những vấn đề mang tính quốc tế thì sau hơn 30 năm “thống nhất đất nước”. ĐCS đã làm được những gì cho đất nước này? Để nâng cao vị thế của đất nước này lên ngang tầm với các nước trong khu vực chứ chưa cần nói tới “năm châu bốn biển”. Khi những nước trong khu vực như Thái Lan, Singapore.. nền kinh tế của họ đã đi trước chúng ta it nhất là mười năm. Với xuất phát điểm cũng như chúng ta thậm chí còn không bằng. Các quan chức của việt nam khi làm việc với những người đồng nhiệm luôn phải “ngồi khom, nói nhỏ”.

Cùng đứng trước hiểm họa mất chủ quyền trên biển đông. Trong khi philippines phản ứng quyết liệt để giữ chủ quyền của họ. Họ lập tức điều ngay chiến hạm và chiến đấu cơ ra khu vực có tàu hải giám trung quốc đang uy hiếp tàu thăm dò của họ khiến cho tàu nay phải lặng lẽ bỏ di. Trong khi tàu TQ ngang nhiên cắt cáp của tàu viking II đang có 8 tàu bảo vệ đứng nhìn bất lực. Sau đó VN lại cho sứ giả “đi đêm” sang cầu hòa.

Ừ thì cứ cho là Philippines họ có đồng minh là Mỹ hậu thuẫn phía sau đi. Vậy tại sao VN không biết tìm những đồng minh cho mình ? Thực tế thì ĐCS cũng đã và đang tìm kiếm đồng minh cho mình. Nhưng ai muốn làm đồng minh với một nhà nước độc tài, hai mặt?

Từ lâu người dân VN đã nhìn rõ bộ mặt thật của ĐCS. Đã có nhiều cuộc đấu tranh đòi dân chủ nổ ra như: LÊ THỊ CÔNG NHÂN, NGUYỄN TIẾN TRUNG, CÙ HUY HÀ VŨ…và gần đây nhất là những lần xuống đường phản đối những hành động gây hấn của TQ đối với lãnh hải của VN. Đây cũng là một cách gián tiếp mà người dân VN cảnh báo cho cái nhà nước do ĐCS lãnh đạo ngộ ra được những sai lầm của họ. Mặc dầu các phong trào đã và đang bị đàn áp một cách quyết liệt nhưng những phong trào này vẫn diễn ra đều đặn mỗi chủ nhật hàng tuần. ĐCS sau lần phản bội lại nhân dân những người đã giúp họ giành được chính quyền. Họ đã tự rút ra được bài học rằng nếu không ngăn chặn những cuộc biểu tình ngay từ khi còn mới bùng phát. Thì nó sẽ tạo nên hiệu ứng nhanh chóng lan rộng ra khắp cả nước. Và khi đã đạt được một mức độ nhất định nào đó nó sẽ dần dần tự hình thành nên những hệ thống có tổ chức. Sẽ là đối trọng với sự độc tài của ĐCS và tất nhiên nó được sự ủng hộ, đồng thuận của nhân dân cả nước. Cao trào của những phong trào sẽ là một cuộc “cách mạng hoa lài” lật đổ cái nhà nước độc tài thối nát này. Chính vì thế mà chúng ta dễ dàng nhận thấy phản ứng quyết liệt của lực lượng an ninh trước những người biểu tình. Họ luôn bắt giữ khống chế những ngưới tiên phong cũng chỉ là để phong trào này không thể phát triển lớn lên.

Tuy nhiên những phong trào này vẫn còn ở mức độ tự phát chưa có hệ thống tổ chức chặt chẽ. Và chưa phổ biến được tới người yêu nước trong cả nước mà mới chỉ bùng phát ở một số thành phố lớn. Một phần cũng vì do thông tin còn bị ĐCS bằng mọi giá ngăn chặn nên chưa đến được với người dân cả nước. Nhưng theo quan điểm của người viết bài thì vẫn còn thiếu một yếu tố quyết định để những phong trào này đi tới thành công. Đó chính là một LÃNH TỤ đủ tư cách đạo đức cũng như năng lực để dẫn dắt phong trào. LÃNH TỤ có vai trò như một con ong chúa qui tụ đầy đủ những tố chất của một nhà lãnh đạo mới. Nhưng vấn đề là khi nào thì LÃNH TỤ xuất hiện? và làm sao biết được đó là LÃNH TỤ? Chúng ta làm gì khi chưa có LÃNH TỤ?

Xin thưa lãnh tụ sẽ dần xuất hiện cùng những phong trào đấu tranh.chỉ có con đường đấu tranh mới có cơ hội cho LÃNH TỤ xuất hiện. Trong những hoàn cảnh càng khắc ngiệt thì hình tương LÃNH TỤ càng được khắc họa một cách rõ nét nhất. Hơn bao giờ hết chúng ta những người hết lòng với tổ quốc VIỆT NAM phải thể hiện trách nhiệm với tổ quốc. Hãy xuống đường tham gia biểu tình để tìm lối thoát cho dân tộc và cũng chính là giải thoát cho chính chúng ta hay con cháu chúng ta sau này. Non sông đang vẫy gọi, đang chờ chúng ta đáp lời.

Dậy mà đi, dậy mà đi
Ai chiến thắng không hề chiến bại
Ai nên khôn không khốn một lần
Dậy mà đi, dậy mà đi
Dậy mà đi hỡi đồng bào ơi.

MrLeNguyen

VN trong cuộc chơi nóng lạnh của TQ ở Biển Đông

TS Lê Hồng Nhật

Theo: TVN

Khó ai không nghĩ rằng viên gạch tạo nền móng cho tranh chấp hôm nay để giành quyền kiểm soát Biển Đông, đã được Trung Quốc đặt từ hơn 20 năm trước. Liệu Trung Quốc sẽ nghĩ gì và làm gì cho 40 năm sau, hay gần hơn là cho 20 hay 10 năm tới?

>> Biển Đông: Giành thời cơ, thoát hiểm hoạ

>> Cuộc chơi chèn ép chủ quyền song phương của TQ ở Biển Đông

>> Tình thế lưỡng nan của VN, Philippines và những cơ hội mới

>> Tại sao Trung Quốc phải xuống nước về vấn đề quần đảo Trường Sa

Hai lá bài nóng lạnh ngẫu nhiên của Trung Quốc

Không có gì lạ là ngay sau khi đe dọa dùng vũ lực chống Việt Nam vào ngày 21/06/2011 trên báo Hoàn cầu, thì Trung Quốc – Việt Nam đã họp mặt cấp cao ngày 25/06/2011, tái tuyên bố tôn trọng 16 chữ vàng về quan hệ láng giềng tốt. Chú ý là 2 sự kiện chỉ cách nhau có 4 ngày với những tín hiệu hoàn toàn đối nghịch nhau từ phía các cơ quan Trung ương của Trung quốc.

Như đã nói, sự kiện sau là dấu hiệu tích cực, cho thấy sự giảm nhiệt trong khu vực. Nhưng nếu nhìn kỹ hơn, tình hình hoàn toàn không đơn giản: Trung Quốc đang chơi hai lá bài nóng lạnh theo kiểu bất định (randomizing strategies), làm Việt Nam mất phương hướng (indifference).

Hãy điểm lại các sự kiện gần đây nhất: Hôm 26/05/2011, tàu Bình Minh 02 bị cắt cáp, chỉ vài ngày trước thềm hội nghị thượng đỉnh về an ninh khu vực, Shangri-La. Ngay sau cuộc gặp bên lề Hội nghị, mà phía Trung Quốc nhấn mạnh cam kết xử lý tranh chấp hòa bình và gìn giữ tình hữu nghị Trung – Việt, vào sáng ngày 09/06/2011, Trung Quốc lại chủ đích cho 3 tầu bán vũ trang, tấn công, cắt cáp tầu Viking 02 của Việt Nam.

Ngày 20 – 21/06/2011, khi hội thảo quốc tế về an ninh Biển Đông đang diễn ra tại Washington, thì 21/06 Trung Quốc chính thức đe dọa dùng vũ lực chống Việt nam trên tờ Hoàn cầu.

Tiếp theo, ngày 25 – 26/06, trong cuộc gặp mặt cao cấp Trung – Việt, Trung Quốc tái khẳng định gìn giữ quan hệ láng giềng tốt; cùng định hướng dư luận, tránh lời nói và hành động làm tổn hại niềm tin của nhân dân hai nước. Nhưng ngay vào lúc nói các lời lẽ đó, một Tướng của Trung Quốc, Bành Quang Khiêm, Phó Tổng thư ký Ủy ban chính sách an ning quốc gia, lại tuyên bố có thể sẽ dạy cho Việt Nam một bài học lớn hơn (cuộc chiến tranh biên giới Trung – Việt) trên kênh truyền hình Trung ương Trung quốc vào 25/06.

Và chỉ vài ngày sau, chính quyền tỉnh Hải Nam lại ban bố lệnh cấm đánh bắt cá trên cả vùng biển của Việt Nam, tiếp tục xâm phạm trực tiếp chủ quyền của Việt Nam, ngay sau tuyên bố chung tại cuộc họp ngoại giao cấp cao giữa hai nước.

Việt Nam trong cuộc chơi

Trong nghiên cứu chiến lược, khi Trung Quốc chơi ngẫu hứng hai lá bài nóng lạnh như vậy, Việt Nam dễ bị mất phương hướng. Theo nghĩa, Việt Nam cũng bị ngẫu nhiên lái theo Trung Quốc. Cụ thể là với xác suất dương, hay với rủi ro có thật, Việt Nam bị rơi vào “vòng tay” của Trung Quốc, mà không thể phối hợp với Mỹ một cách thường xuyên, hay sự phối hợp chỉ có tính nhất thời. Tức là, Việt Nam bị “nhẩy” một cách ngẫu nhiên giữa 2 chiến lược: tự vệ đơn phương và phòng thủ cùng với Mỹ, một khi có chiến sự nổ ra bất ngờ với Trung Quốc (Xem sơ đồ 2).

Như vậy, có một sự rất khác với Philippines, mà sự phối hợp nhất quán với Mỹ cho phép tạo sức mạnh răn đe. Ngược lại, Việt Nam phải đối mặt với khả năng (dù không phải chắc chắn sẽ xảy ra) là Trung Quốc sẽ bất ngờ tấn công Việt Nam ở một khâu then chốt, mà nó cho phép: (i) Tăng quyền kiểm soát trên thực tế của Trung Quốc đối với con đường hàng hải quốc tế qua Biển Đông. (ii) Tăng khả năng tạo tranh chấp, lan dần vào các vùng không có tranh chấp, thông qua sự chèn ép về quyền khai thác các tài nguyên mang tính loại trừ, cụ thể là dầu khí. (iii) Điểm tấn công phải cho phép phát huy tối đa chiến lược chơi ngẫu hứng hai lá bài nóng lạnh, sao cho: Việt Nam bị ép vào thế buộc phải tự vệ đơn phương khi nổ ra xung đột. Mỹ không kịp trở tay hoặc không thể điều động chiến hạm, tàu sân bay tới, chỉ vì một xung đột có quy mô xem ra là nhỏ.

Sự lựa chọn điểm và thời điểm tấn công, thỏa mãn cả 3 điều kiện nói trên sẽ làm tăng cao nhất cả lợi ích ngắn hạn và dài hạn cho Trung Quốc. Cụ thể là, tự vệ đơn phương sẽ làm sự thôn tính xảy ra nhanh. Sau khi thôn tính, xung đột song phương sẽ lan rộng hơn, phức tạp hơn, mà Trung Quốc có thể sử dụng tốt nhất lợi thế vượt trội để chèn ép, đem lại lợi ích dài hạn cho Trung Quốc. Nói rõ hơn, Trung Quốc đang lái xung đột về trạng thái song phương, ngay trong bối cảnh có nỗ lực đa phương để kiềm chế xung đột.

Mặc dù mọi so sánh đều là khập khiễng. Nhưng về lịch sử, vụ Trung Quốc bất ngờ tấn công bãi Gạc Ma vào tháng 03/1988, khi Liên Xô cũ còn đóng quân tại Cam Ranh như một lá chắn hữu hiệu để bảo vệ Trường Sa, là một ví dụ đáng ghi nhớ. Đó là thời điểm mà chiến tranh biên giới Việt – Trung đã giảm nhiệt. Ước mong của nhân dân Việt Nam là có quan hệ tốt với người láng giềng khổng lồ Trung Quốc. Ước mong đó đã được hiện thực hóa từng bước qua những trao đổi ngoại giao cấp chính phủ. Giao dịch thương mại đã nhen nhóm trở lại, khi đốm lửa chiến tranh xem ra đang nguội dần. Trong bối cảnh đó, ít ai ngờ rằng, Trung Quốc sẽ bất ngờ cho quân tấn công Bãi Gạc Ma.

Hãy nhìn từ ngày ấy, để hiểu rõ mất mát của dân tộc, khi các chiến sĩ hải quân Việt Nam hy sinh kề bên vòng tròn bất tử – biểu tượng chủ quyền của Việt Nam trên đảo – để bảo vệ lá cờ tổ quốc.

Hãy nghĩ theo chiều dài lịch sử cho đến ngày hôm nay, khi tranh chấp biển đảo, khai thác dầu, diễn ra căng thẳng nhất là quanh vùng biển gần Trường Sa, Hoàng Sa, và đang lan dần vào thềm lục địa, sát bờ biển Việt Nam, qua vụ Bình Minh 02 và Viking 02.

Khó ai không nghĩ rằng viên gạch tạo nền móng cho tranh chấp hôm nay để giành quyền kiểm soát Biển Đông, đã được Trung Quốc đặt từ hơn 20 năm trước. Và nếu tính cả Hoàng Sa, thì sự chuẩn bị đã có gần 40 năm. Liệu Trung Quốc sẽ nghĩ gì và làm gì cho 40 năm sau, hay gần hơn là cho 20 hay 10 năm tới?

Việt Nam hiện nay, cũng giống như 20 năm về trước, khó có thể làm gì nhiều để ứng phó với cách mà Trung Quốc ứng xử lá mặt lá trái, lúc nóng lúc lạnh, khiến chính mình bị dao động giữa một bên là chiến lược phòng thủ chung với Mỹ và ASEAN; và bên kia là buộc phải ở vào thế tự vệ đơn phương, khi bất ngờ bị Trung Quốc tấn công. Nhưng Việt Nam cũng có thể chơi ngẫu hứng để đáp trả ngẫu hứng. Việt Nam có thể tăng cường hơn nữa các đàm phán song phương với Trung Quốc. Đồng thời, cần hành động thực tế hơn, nhưng ngẫu nhiên và khó xác định hơn, trong việc củng cố hợp tác phòng thủ với Mỹ, Nhật, Nga, Ấn Độ và các nước ASEAN. Điều đó là lẽ phải, nhằm bảo đảm sự ổn định khu vực và tự do, an toàn hàng hải. Các phương án có thể trải rộng từ việc tăng khả năng cảnh báo sớm, tăng sức mạnh phòng thủ ở các điểm chiến lược; cho đến phối hợp tập trận, bảo vệ an toàn hàng hải; hợp tác tuần tra trên không và trên biển thuộc chủ quyền quốc gia, đi kèm với hoạt động nhân đạo, cứu hộ, hay khảo sát khí tượng, nghiên cứu môi trường tự nhiên và thềm lục địa.

Cách chơi ngẫu hứng như vậy sẽ làm thay đổi kỳ vọng của các bên, kể cả Trung Quốc về được và mất khi nổ ra xung đột; do đó ảnh hưởng tới xác suất gây ra xung đột. Chính Việt Nam cũng có thể lái Trung Quốc trở lại thế đa phương để giải quyết xung đột song phương; cụ thể là khi khả năng có sự đáp trả mang tính phối hợp quốc tế là đủ cao, thì tự nó đã tạo ra sự răn đe hữu hiệu với các hành động gây chiến hung hăng nhất.

Theo cách tiếp cận như vậy, chúng ta phải mở rộng khái niệm về chủ quyền trong một Thế giới mới, mà sự liên kết kinh tế – địa – chính trị làm nền tảng vững chắc cho cơ chế phối hợp an ninh đa phương. (Economies of scale and scope in coordination mechanism). Nói rõ hơn, dù rằng chúng ta tôn trọng và gìn giữ tình hữu nghị với Trung Quốc. Nhưng việc ngồi im không làm gì, khi Trung Quốc xâm phạm chủ quyền khai thác tài nguyên mang tính loại trừ, như đánh bắt cá hay khai hác dầu thô tại thềm lục địa của Việt Nam, thì điều đó không chỉ làm tổn thất niềm tự hào dân tộc, mà còn làm suy yếu tình hữu nghị của nhân dân Việt Nam với Trung Quốc.

Nói rõ hơn, chúng ta nên có những giải pháp cụ thể để bảo vệ chủ quyền thông qua hợp tác kinh tế – địa – chính trị với tất cả các nước liên đới, không chỉ riêng với Trung Quốc.

Cụ thể là chúng ta có thể cho thuê (lease) dài hạn, ví dụ là 100 năm, các vùng biển đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam cho các quốc gia như Nga, Mỹ, Nhật, nhằm khai thác dầu thô hoặc đánh bắt cá. Các khoản thuế (tax) hoặc lợi tức (rent) từ việc cho thuê quyền khai thác tài nguyên mang tính loại trừ này chính là biểu hiện cụ thể về kinh tế của chủ quyền không thể bị xâm phạm của Việt Nam. Khi mà các dạng thuế, lợi tức được ghi nhận và quyền sở hữu của các quốc gia hay công ty nước ngoài được đảm bảo theo công ước quốc tế, thì tất yếu sẽ làm giảm các tranh chấp song phương, vì khả năng bảo vệ chủ quyền được tăng lên.

Một khía cạnh nữa là việc phối hợp khai thác và bảo vệ tài nguyên không loại trừ: đường hàng hải chiến lược qua Biển Đông, với hơn 1/3 giá trị thương mại toàn cầu đi qua đó. Tiềm năng phát triển kinh tế và vị thế địa lý chiến lược của Việt Nam có thể tạo ra sự bổ trợ lẫn nhau, cho phép Việt Nam tham dự ngày càng nhiều hơn vào việc khai thác nguồn tài nguyên khổng lồ và ngày một tăng này. Việt Nam có thể cho thuê không cảng và hải cảng chiến lược, mà nó cho phép tăng tính an toàn và hiệu quả, hay giảm chi phí và rủi ro trong vận chuyển trên không và trên biển. Điều đó làm tăng sự đóng góp của Việt Nam vào giá trị thương mại của nguồn tài nguyên không loại trừ – đường vận chuyển quốc tế dọc theo Biển Đông.

Ở đây có sự ghép nối giữa lợi ích thương mại và bảo đảm an ninh đa phương, mà các bên liên quan đều hưởng lợi. Vì vậy, giá trị của sự phối hợp là rất lớn. Từ các điểm nút chiến lược ven biển, sự bùng nổ về giao dịch, vận chuyển quốc tế sẽ cho phép các dòng vốn, công nghệ, và các phương thức tổ chức hiệu quả lan truyền vào Việt Nam. Các nguồn lực này sẽ tạo nên sự tăng trưởng dựa trên hiệu quả hay vốn tri thức, kéo theo sự hoà nhập mạnh của Việt Nam vào chuỗi thương mại toàn cầu. Nói rõ hơn, việc khai thác lợi thế về thông thương và tăng cường giao dịch quốc tế chính là làm tăng giá trị kinh tế của chủ quyền và sức mạnh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam.

Liệu Trung Quốc có tấn công xâm lược Việt Nam lần thứ hai không?

https://i0.wp.com/upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/thumb/7/7f/Chi%E1%BA%BFn_tranh_bi%C3%AAn_gi%E1%BB%9Bi_Vi%E1%BB%87t-Trung.png/300px-Chi%E1%BA%BFn_tranh_bi%C3%AAn_gi%E1%BB%9Bi_Vi%E1%BB%87t-Trung.png

Theo: Viet-studies

Việc Trung Quốc gây hấn trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam khiến tình hình biển Đông trở nên căng thẳng. Báo chí Trung Quốc (thậm chí như tờ thời báo Hoàn Cầu-một phụ trương của Nhân Dân nhật báo) cùng với các trang Web lên tiếng hù dọa, xúc phạm dân tộc Việt Nam, gây thù hằn dân tộc, đe dọa chiến tranh… Với những dấu hiệu đó, liệu Trung Quốc có tấn công xâm lược Việt Nam lần thứ hai nữa không? Nếu có thì quy mô đến như thế nào, xảy ra ở đâu, trên biển hay đất liền???… Với tư cách từng là một sỹ quan Hải quân xin có một vài điều để bạn đọc tham khảo.

Ý tưởng đó của nhà cầm quyền Trung Quốc không thể là không có

Trước hết bắt nguồn từ dã tâm của họ. Dã tâm của nhà cầm quyền Trung Quốc thế hệ trước cho đến thế hệ sau là bành trướng, bá quyền, nước lớn. Việt Nam không bao giờ là nước chư hầu của Trung Quốc, là nước luôn cản trở dã tâm đó. Muốn có chuỗi đảo thứ nhất, thứ hai rồi thì chuỗi ngọc trai… thì phải chinh phục được Việt Nam. Vì vậy, bất kỳ lúc nào, bất kỳ nơi đâu, hễ thấy Việt Nam sơ hở, khó khăn… là cái dã tâm đó nổi lên y như thằng nghiện ngửi được mùi hêroin. Lịch sử chống giặc ngoại xâm phương Bắc của dân tộc ta đã chứng minh hùng hồn điều đó. Gần đây nhất là xâm chiếm đảo Hoàng Sa năm 1974; gây chiến tranh xâm lược Việt Nam năm 1979; gây xung đột ở Trường Sa 1988… càng chứng minh điều đó.

Trong 3 thập kỷ qua Trung Quốc tăng trưởng kinh tế cao và liên tục. Tính đến nay GDP của họ gần xấp xỉ Mỹ, vượt Nhật. Điều đáng nói là cái giá phải trả cho sự tăng trưởng “nóng” này là quá đắt. Hệ lụy của nó là gì, đó là sự phát triển kinh tế với tốc độ nhanh của một đất nước có nền kinh tế tư bản nửa vời, một chế độ chính trị “mang màu sắc Trung Quốc” “mèo trắng hay mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được chuột” qua 3 thập kỷ giờ đã trở thành Đế quốc – Một đế quốc non trẻ “mang màu sắc Trung Quốc” rồi (để cho gọn ta gọi là Đế quốc Trung Quốc). Bản chất của chủ nghĩa đế quốc là gì, ai cũng biết. Tham vọng của Trung Quốc là muốn chia lại thế giới, thậm chí muốn bá chủ thế giới nhưng nhiều tiền mà không mạnh. GDP nhì thế giới và có thể đứng đầu thế giới nhưng chất lượng GDP của Trung Quốc thấp. (Đang còn phải mua động cơ máy bay của Nga thì cái ngày “mở mày mở mặt” “nói gì làm nấy” với thế giới là không biết bao giờ). Tuy nhiên với khu vực, các láng giềng bé nhỏ đặc biệt là Việt Nam thì nguy cơ bị Đế quốcTrung Quốc gây hấn, thôn tính là điều có thể. Hãy xem để biết một chút gan ruột của họ: “Hiện nay,Việt nam là mối đe dọa chủ yếu nhất đối với an ninh lãnh thổ Trung Quốc, là trở ngại lớn nhất đối với sự trỗi dậy của Trung Quốc. Nhìn từ góc độ khác cho thấy Việt Nam cũng là đầu mối và trung tâm chiến lược của toàn bộ khu vực Đông Nam Á. Muốn kiểm soát Đông Nam Á cần chinh phục Việt Nam. Chinh phục Việt Nam là bước đầu tiên cũng là bước quan trọng nhất để Trung Quốc mở rộng về phía Nam” (Báo mạng Trung Quốc ngày 19/6/2011)

Trung Quốc sẽ đánh chiếm quần đảo Trường Sa???

Trước hết phải khẳng định rằng nếu biển Đông bị một nước nào khống chế sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích an ninh, chính trị, kinh tế của cả khu vực. Còn nước nào kiểm soát được quần đảo Trường Sa thì sẽ khống chế được biển Đông. Vì vậy Trung Quốc muốn có “đường lưỡi bò” hay gì gì đi nữa thì phải có quần đảo Trường Sa.

Đánh chiếm quần đảo này chỉ có hai phương án thông thường mà thôi. Thứ nhất là bí mật, bất ngờ, nhanh chóng dùng người nhái đổ bộ đánh chiếm đảo, khi đất liền biết thì đã muộn. Thứ hai là sử dụng hỏa lực của hải quân, không quân, tên lửa…vừa dọn bãi, vừa tiêu diệt lực lượng phòng vệ trên đảo, sau đó đổ bộ quân lên chiếm đảo.(Y như tập trận.)

Phương án thứ nhất thực hiện hơi bị khó, chỉ đem quân đi nướng thôi. Lính đảo Trường Sa của Việt Nam không đơn giản, họ bắn đêm, bắn ngày là bách phát bách trúng. Bộ tham mưu Hải quân Việt Nam cũng không ngu ngơ gì mà không chuẩn bị, bố trí kỹ để chống loại đột nhập này. Đây cũng là bài tủ của lính Trường Sa.

Phương án thứ hai với Trung Quốc là tối ưu vì họ có các lợi thế, đó là vũ khí, trang bị nhiều và mạnh, quân đổ bộ đông, tuy nhiên không có tính bất ngờ, lực lượng bị bộc lộ toàn bộ vì Trường Sa cách khu vực tập kết của họ quá xa.

Thực hiện phương án này Trung Quốc sẽ dùng hỏa lực để làm sạch bãi đổ bộ và sạch các lực lượng phòng thủ trên đảo. Nhưng hiệu suất, hiệu quả không xác định. Lính Trường Sa dại gì đưa lưng ra chịu tên lửa, pháo tầu của Trung Quốc giã vào. Họ biết cách tránh, chẳng hạn xuống hầm ngầm, để sau đó tiếp đón lính đổ bộ của Trung Quốc đến. Đó là mới nói đến sự đối đầu trực tiếp giữa toàn bộ lực lượng đánh chiếm đảo của Trung Quốc với lính đảo Việt Nam, còn thực ra đối đầu với lực lượng bảo vệ đảo chủ yếu từ đất liền của Việt Nam mới đáng kể. Như trên đã nói Trung Quốc cách đảo Trường Sa – khu vực tác chiến quá xa, gấp ba lần so với từ đất liền Việt Nam đến đó. Đây chính là điểm bất lợi chết người của Trung Quốc. Bộ tham mưu Hải quân Việt Nam sẽ biết lực lượng của Hải quân Trung Quốc đến từ đâu, hành quân ra sao, có bao nhiêu tầu, chủng loại gì, thời gian đến địa điểm tập kết, không quân tác chiến bao lâu thì phải quay về (vì hết nhiên liệu) vv…vv. Chắc với vũ khí trang bị hiện có của Việt Nam như hệ thống Bastion, SU30, các tàu phóng lôi, tên lửa loại nhỏ tốc độ cao… thì việc lực lượng đánh chiếm đến được vị trí tập kết đã khó bảo toàn. Giới quân sự Trung Quốc biết điều này không? Họ thừa biết vì đó không phải là những cuộc tập trận diễu võ dương oai hù dọa những nước chưa từng chiến tranh. Họ – giới quân sự chứ không phải như bọn choai choai đeo kính cận trên mạng internet lúc nào cũng hô hào chiến tranh, cướp Trường Sa đâu. Nếu như dễ dàng thì họ xơi lâu rồi, từ năm 1988 cơ.

Suy cho cùng một cuộc chiến tranh hoặc xung đột quân sự nếu như xảy ra trên biển giữa Trung Quốc và Việt Nam mà Trung Quốc không chiếm được Trường Sa thì không giải quyết được điều gì về mặt quân sự, ngược lại tổn thất rất lớn về chính trị, ngoại giao. Vì vậy, để đạt được mục đích của mình Trung Quốc sẵn sàng mở cuộc chiến tranh xâm lược lớn, tổng lực cả trên biển và đất liền. Lý do ư? Không có lý do gì hết. Đức tấn công Liên Xô có lý do gì đâu mặc dù hai nước đã ký với nhau Hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau. Việt Nam phải hết sức cảnh giác và chuẩn bị chu đáo mà “đón tiếp” họ. Họ gây căng thẳng trên biển nhưng xung đột chắc chắn sẽ xảy ra trên đất liền. Khi đảo không còn điểm tựa đất liền thì việc chiếm đảo Trường Sa cũng dễ như chiếm đảo Hoàng Sa năm 1974 vậy thôi. Trung Quốc không muốn chiếm đóng lãnh thổ đất liền làm gì vì họ không muốn như các vương triều ngày trước. Họ chỉ muốn Trường Sa và biển Đông.

Trên đất liền Trung Quốc có rất nhiều lợi thế và đặc biệt họ có nhiều căn cứ quân sự trong lãnh thổ của Việt Nam (có bao nhiêu thì hỏi Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, Bộ Tài nguyên & Môi trường, chủ tịch các tỉnh cho Trung Quốc thuê đất trồng rừng và các khu có hàng ngàn lao động lực lưỡng người Hán cư trú là biết. Còn có thật là căn cứ quân sự hay không thì cứ thử vào mà xem, như tướng Đồng Sỹ Nguyên còn chưa vào được nữa là…).

Trung Quốc có gây chiến tranh xâm lược Việt Nam lần hai không?

Nguy cơ luôn tiềm ẩn nhưng khó xảy ra vì mấy lẽ sau:

Thế giới ngày nay khác xưa. Nhân dân Trung Quốc cũng khác xưa, họ không để cho những cái đầu nóng đại Hán muốn làm gì thì làm. Họ quá hiểu họ là ai, họ được gì…, họ cũng như nhân dân Việt Nam không muốn chiến tranh.

Hai là nhà cầm quyền Trung Quốc thừa hiểu một dân tộc mà vì “muốn hòa bình nên đã nhân nhượng nhưng càng nhân nhượng thì địch càng lấn tới”… lúc ấy sức mạnh và lòng căm thù của dân tộc đó như chiếc lò xo bị nén đến tận cùng nên khi bật ra thì sẽ giải phóng một năng lượng khủng khiếp: “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Đánh nhau với một dân tộc như vậy hoặc là bị trắng tay hoặc bị sa lầy. Với dân tộc Việt Nam thì lịch sử còn chưa ráo mực.

Ba là, đành rằng Trung Quốc bây giờ không phải như Trung Quốc năm 1979 thì Việt Nam càng không phải như năm 1979. Năm 1979 Việt Nam không sẵn sàng và bị bất ngờ thì nay yếu tố đó không còn. Vì thế chiến tranh xảy ra là khốc liệt. Việt Nam và Trung Quốc kề nhau nếu Trung Quốc gây chiến thì không gian của cuộc chiến không chỉ trên lãnh thổ Việt Nam mà lãnh thổ của Trung Quốc cũng không loại trừ. Người dân vô tội của Việt Nam và Trung Quốc sẽ mất mạng vì đạn lạc, bom rơi của chiến tranh sẽ căm thù tột độ kẻ nào đã gây chiến. Mầm đại loạn nổi lên, là “giọt nước cuối cùng” sẽ làm cho Trung Quốc lung lay, bất ổn. Chưa biết chừng Trung Quốc lúc đó không còn là Trung Hoa vĩ đại nữa mà bị chia thành nước nhỏ như đã từng trước đó.

Không đời nào Trung Quốc muốn các nước khác như Nhật, Nga, Ấn Độ và Mỹ “tọa sơn quan hổ đấu”. Vì nuốt gọn Việt Nam không dễ và nhanh như tờ “Hoàn Cầu thời báo” tưởng.

Cách mạng hoa Lài ở Việt Nam

Huỳnh Trọng Hiếu

Sợ hãi là một loại cảm xúc, nó cũng giống nhiều cảm xúc khác như yêu ghét, giận hờn, căm thù… cảm xúc sợ hãi không chỉ đơn giản là thứ cảm xúc bình thường mà nó là một kiểu bản năng sinh tồn, không chỉ loài người mới có. Con vật cũng biết sợ hãi…sợ để sinh tồn, phải biết sợ để tự vệ, và bảo vệ bầy đàn. Khi bị rượt đuổi, bị tấn công hay đứng trước những gì bất thường thì phản ứng của con người cũng như con vật đều tỏ ra sợ hãi. Chỉ có điều giữa con người và con vật sự sợ hãi cũng có nhiều khác biệt. Sự khác biệt đó thể hiện ở chỗ con người biết dùng lý trí để phân tích, hiểu rõ vấn đề, từ đó kiểm soát sự sợ hải của mình còn con vật thì không. Bởi lẽ sợ hãi nó vừa mang lý tính khách quan vừa mang cảm tính chủ quan. Đứng trước một đối thủ nặng ký hơn, hay một kẻ thù tàn bạo có thể đe dọa đến an ninh, tính mệnh của mình, con người đương nhiên vấp phải sự sợ hãi. Ban đầu là cảm giác sợ (cảm tính chủ quan), sau đó lý trí sẽ thay thế cảm xúc, để phân tích xem tương quan lực lượng đôi bên ra sao? Đối thủ có những gì và mình có những gì? Họ có thể làm gì được mình và làm đến mức nào? Một loạt những sự kiện giả định được đặt ra nhằm lường đoán kết quả sẽ xảy ra…khi đã phỏng đoán một cách sơ lược về kết quả của vấn đề thì họ tự khắc kiềm chế được sự sợ hãi của mình. Hay nói cách khác là con người biết dùng lý trí để tự kiểm soát sự sợ hãi. Lúc đó sợ hãi đi từ cảm xúc chủ quan sang cảm xúc khách quan.

Cũng có những thứ sợ hãi đơn thuần chỉ là cảm tính chủ quan như nhìn từ trên cao xuống, mặc dù bạn đang ở một vị trí rất an toàn nhưng vẫn thấy sợ. Hay đang ở trong bóng tối, mặc dù sẽ không có ai đó tấn công bạn nhưng bạn vẫn sợ bóng tối. Hay một ví dụ khác, khi bạn bị một đối tượng nào đó tấn công và gây tổn thương, thì lần sau khi gặp lại đối tượng kia hay chỉ là một thứ gần giống như vậy sẽ làm bạn sợ mặc dù thời điểm hiện tại và trong quá khứ vốn đã có nhiều khác biệt. Có những thứ trước đây sẽ xảy ra như vậy, nhưng hiện tại điều đó là bất khả…tất cả những thứ sợ hãi xuất phát từ cảm tính đều là sợ hãi chủ quan.

Chủ nghĩa cộng sản quốc tế được đánh dấu kể từ sau cuộc ‘’cách mạng’’ tháng 10 Nga và sau đó lan sang các nước như TQ, VN, Bắc Hàn, Cuba … và tất cả các chế độ độc tài khác trên Thế giới đều có một điểm chung là biết cách khai dụng sự sợ hãi để cai trị dân chúng. Khi nắm được quyền lực, việc đầu tiên mà các vị lãnh tụ làm là sử dụng võ lực để bắt bớ tra tấn hay trấn áp dân chúng và các lực lượng đối lập. Ai cũng sợ vũ lực…và nhờ đó các chế độ độc tài đã ung dung nắm quyền, tướt đoạt mọi giá trị căn bản của người khác một cách thô thiển nhất.

Đảng CS VN sau khi nắm quyền ở miền Bắc đã thực hiện chính sách đàn áp, sử dụng bạo lực với dân chúng một cách có hệ thống, họ gieo rắc sự sợ hãi lên cả miền Bắc để nắm quyền độc tôn cai trị. Sau năm 1975, CS cưỡng chiếm miền Nam và sau đó cũng thực hiện chính sách cai trị bằng bạo lực trên cả nước. Những vụ bắn giết không được xét xử, những vụ đánh đập tra tấn dã man, những hố chôn người tập thể, những nhà tù khổ sai là phương tiện để duy trì quyền lực trong gần sáu thập niên cầm quyền.

Thế giới ngày hôm nay với những định chế về Tự do Dân chủ, các cuộc cách mạng đòi nhân quyền đang diễn ra rầm rộ ở nhiều khu vực trên thế giới. Các nhà độc tài liên tiếp bị Tòa án quốc tế truy nã. Thế giới văn minh không còn chấp nhận những biện pháp trấn áp bằng võ lực khiến cho những nhà độc tài không dể dàng đàn áp dân chúng mà không bị trừng phạt hay trả giá. Trước khi đưa ra bất kỳ quyết định nào, họ cần suy nghĩ lại về thân phận của mình trước sự chế tài của quốc tế và từ đó các vụ giết chóc, thảm sát cũng dần giảm thiểu.

Cổ nhân có câu: “Một lần bị rắn cắn, cả đời sợ dây thừng”. Người dân VN cũng giống như nhiều nạn nhân của các chế độ độc tài khác cũng đang ở trong tâm trạng như vậy. Họ trải qua một thời gian sống trong sợ hãi quá lâu khiến cho cảm giác sợ hải trở thành quán tình không thể dể dàng một sớm một chiều có thể vứt bỏ được. Để có thể vứt bỏ sự sợ hãi cố hữu đang lưu cửu trong mỗi người dân Việt chúng ta xưa nay cần có một chất xúc tác thật mạnh. Chất xúc tác đó phải là một lý do,một động lực để người dân VN nhận thức rằng : Sự sợ hãi không còn là bản năng SINH TỒN nữa mà ngược lại sợ hãi đồng nghĩa với DIỆT VONG. Có như thế, người dân VN sẽ từ bỏ bản năng sinh tồn – một thứ cảm tính chủ quan của mình để thay thế vào đó là lý tính khách quan.

Trung Quốc đang là mối hiểm họa cho toàn thể dân tộc Việt Nam. Chính quyền Bắc Kinh đang âm mưu chiếm đoạt của cãi, tài nguyên và tiến đến nô lệ hóa người dân VN. Còn chính quyền Hà Nội thì nhu nhược đối với kẻ thù. Không những thế, vì sự tồn vong của tập đoàn lãnh đạo, Đảng CS đã có những sự « đồng thuận» ngầm giữa hai nhà nước. CSVN thỏa thuận nhượng đất nhượng biển cho Bắc Kinh để đổi lấy sự bảo vệ về mặt an ninh cho chế độ. Họ sẵn sàng biến dân tộc VN trở thành nô lệ cho Hán tộc trong tương lai miễn sao trước mắt, chiếc ghế quyền lực được giữ vững, tiền bạc, đất đai của họ không bị tổn hại là được. Họ đã bộc lộ bản chất nhơ bẩn của những kẻ chỉ biết vì quyền lợi bản thân, đảng phái gạt bỏ lợi ích quốc gia qua những hành vi bán nước trắng trợn. Hành động ngang ngược của Tàu cộng và hành vi phản quốc của Việt cộng là động lực, là chất xúc tác hữu hiệu khiến người dân VN vượt qua sợ hãi để cùng đứng lên thực hiện ý chí và trách nhiệm của mình và đi đến những quyết định chung. Nếu nhân dân VN còn sợ hãi bạo lực không dám đấu tranh vì sự tồn vong của quốc gia, thì điều này đồng nghĩa với họa diệt vong cho toàn dân tộc. Sự sợ hãi đã không còn là để TỰ VỆ mà trở thành TỰ SÁT.

Khi sự sợ hãi bị đẩy lùi, người dân dám đứng lên thể hiện ý chí của mình thì đó là thời điểm chấm hết đối với chế độ CS. Từ những cuộc biểu tình chống Tàu cộng xâm lược, sẽ biến thành cuộc biểu tình đòi công bằng xã hội, đòi Tự do-dân chủ, vì công bằng xã hội và tự do – dân chủ là khát vọng luôn đồng hành với lòng yêu nước. Từ cuộc tuần hành nhỏ trên đường phố sẽ chuyển sang những cuộc đấu tranh với qui mô lớn làm rúng động guồng máy cai trị của chế độ CS. Các cuộc biểu tình sẽ làm người dân bớt sợ hãi và tập làm quen với sự phản kháng (như một biểu hiện của quyền công dân). Không thể cai trị dân chúng bằng sự sợ hãi được nữa thì tương lai tập đoàn CS sẽ đi về đâu khi từ trước đến nay, phương pháp duy nhất để duy trì quyền lực của CS là “nhân giống” sự sợ hãi ?

Có thể nói, những cuộc biểu tình chống Tàu và cuộc cách mạng đòi Dân chủ khác nhau về hình thức nhưng có cùng bản chất. Hình thức là chống Tàu hay đòi Dân chủ mà thôi. Xét về bản chất, cuộc biểu tình chống Tàu là nhát dao cắt đứt sợi dây sợ hãi trường cửu bấy lâu nay để từ đó ươm mầm cho sự phản kháng của dân chúng. Có ai muốn sống đời sống của kẻ nô lệ, có ai không muốn được tự do-hạnh phúc (đích thực), có người dân nào không muốn làm chủ vận mệnh đất nước mình?. Nhân dân VN sẽ cùng nhau xuống đường và đi đến quyết định giải thể chế độ CS vì họ nhận thấy điều đó là cần thiết để mở ra một sinh lộ cho dân tộc. Chống Tàu và sau đó chống CS là hai sự việc có mối quan hệ nhân quả, đã có nhân chắc chắn sẽ có quả, không thể nào sai khác được. Bản thân giới lãnh đạo CS cũng hiểu rõ điều đó, nhưng họ không thể yêu cầu đàn anh TC không cướp dầu, không bắn giết ngư dân, không xâm phạm hải phận của VN được! Họ cũng không thể bảo người dân VN đừng chống TC được! Cách duy nhất mà những người CS muốn làm là đàn áp, nhưng chắc chắn một điều, đàn áp chưa chắc khuất phục được lòng yêu nước trong mỗi người dân VN, ngược lại càng lộ rõ bộ mặt phản quốc của Đảng CS. Kết quả sẽ như “tưới thêm dầu vô lửa”. Chế độ CS càng mau chóng suy tàn. Thời điểm hiện nay, thật không có gì là chủ quan khi nói rằng: Mùa xuân Ả rập đang đến VN hay Cách mạng Hoa Lài sẽ nổ ra tại VN.

Sửa đổi hiến pháp cho ai, sửa cái gì?

Phạm Trần

Ban Chấp hành Trung ương XI của đảng Cộng sản Việt Nam họp từ ngày 4 đến 10 tháng 7 (2011) đã tập trung vào 2 việc: Thảo luận và cho ý kiến “sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992” và “giới thiệu nhân sự lãnh đạo cấp cao của các cơ quan nhà nước”, tuy nhiên việc sửa đổi Hiến pháp đã bị Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) và Điều lệ đảng (2011) chận ngang họng trước khi bắt đầu.

Việc làm vờ vịt mị dân của đảng sẽ vô ý nghĩa nếu quyền làm chủ đất nước của người dân vẫn chỉ là hình thức như hiện nay và Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất của Quốc gia tiếp tục làm tay sai cho đảng.

Lý do sửa đổi Hiến Pháp, theo lời Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng thì: “Từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến nay, Nhà nước ta đã ban hành 4 bản Hiến pháp, đó là Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001).”

Nhưng nay, sau 25 năm được gọi là “đổi mới” (từ 1986) thì tình hình đất nước đã thay đổi nên Trọng bảo: “Đại hội (đảng) đã quyết định phải khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 cho phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.” Tuy nhiên Hiến pháp 1992 sẽ được “sửa đổi, bổ sung” như thế nào, chưa ai biết, vậy mà Trọng đã rào đón nghe rất chướng tai: “Tuy nhiên, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp là công việc rất khó và hệ trọng, cần được tiến hành một cách khoa học và chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương. Vì vậy, tại Hội nghị lần này, Ban Chấp hành Trung ương cần thảo luận, cho ý kiến về quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, các định hướng lớn và phương châm, phương pháp tiến hành nghiên cứu, tổng kết, bổ sung, sửa đổi Hiến pháp năm 1992, bảo đảm phát huy dân chủ, có sự tham gia đông đảo của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý và lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân; không để các thế lực xấu, thù địch lợi dụng chống phá, xuyên tạc.”

Tại sao lại sợ bị chống đối, mỉa mai một việc làm chưa ai biết nội dung tốt hay xấu, dân chủ hay độc tài nhếch nhác hơn Hiến pháp 1992?

Trọng không cho biết liệu có người nào, nhóm nào hay ban, ngành nào trong đảng đã soạn xong một Hiến pháp mới, hay một số điều mới để trao cho 200 Ủy viên Trung ương đảng, chính thức và dự khuyết, xem xét thảo luận trong kỳ họp ngắn ngủi này, hay chỉ thảo luận theo kiểu chung chung như “cỡi ngựa xem hoa”?

Việc có thảo luận đàng hoàng hay có lệ cũng chẳng quan trọng vì chuyện sửa đồi, bổ sung Hiến pháp 1992 đã bắt đầu từ Trung ương đảng, thay vì phải do Quốc hội như khoản 1, Điều 84 Hiến pháp quy định: “Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

1- Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật; quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.”

Hành động ngược chiều này một lần nữa chứng minh đảng tiếp tục ngồi lên Hiến pháp để nắm đầu Quốc hội như Điều 4 Hiến pháp 1992 đã xác nhận: “ Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”

Đảng CSVN chỉ có hơn 3 triệu đảng viên mà lại tự cho mình quyền “lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, tức cai trị cả 87 triệu con người thì qủa là tham lam và độc tài.

Nhưng cái đảng này, trước khi viết ra Điều 4 Hiến pháp để ngồi lên đầu dân thì cũng đã trơ trẽn nịnh dân trong Điều 2 rằng: “ Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.”

CÓ KHÁC GÌ NHAU?

Tư tưởng mị dân này còn được lập lại rập khuôn trong phần IV của Cương lĩnh đảng năm 2011 (Hệ thống Chính trị và Vai trò Lãnh đạo của Đảng): ”Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản…. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội.”

Thậm chí trong Bản Điều lệ đảng, được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng thông qua ngày 19 tháng 01 năm 2011 cũng viết: “ Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc…”

“…Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.”

Như vậy có phải đảng đã mượn Hiến pháp để viết ra Cương lĩnh và Điều lệ cho đảng hoạt động để nắm lấy cả nước, hay đảng đã đẻ ra cả ba thứ?

Lối làm ăn nhập nhằng này đã lộ ra bản chất tham lam của đảng CSVN đối với nhân dân và xã hội.

Vì vậy bất cứ sự sửa đồi hay bổ sung nào của Hiến pháp mà không phục hồi được quyền làm chủ đất nước của nhân dân; không tách Quốc hội ra khỏi quyền chủ quản của đảng; không chấm dứt vài trò lãnh đạo độc tài, hay vẫn tiếp tục chủ trương đảng cử dân bầu ra các cơ quan đại biểu cho dân thì dù có tô son điểm phấn thế nào thì Hiến pháp mới cũng vô giá trị, không thay đổi được bộ mặt chế độ.

Bởi vì từ trước tới nay, nhà nước chưa bao giờ tôn trọng các quyền của dân ghi trong Hiến pháp 1992 như: “Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân; xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.” (Điều 3)

Hay Điều 6: “Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân…..”

Hoặc Điều 68 : “Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật.”

Đặc biệt Nhà nước còn nuốt lời hứa ghi trong các Điều 69: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.”

Điều 70: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật.

Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ.

Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.”

Ngoài ra Nhà nước còn trắng trợn vi phạm cả Điều 73 viết rằng: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở.

Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép.

Thư tín, điện thoại, điện tín của công dân được bảo đảm an toàn và bí mật.

Việc khám xét chỗ ở, việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện tín của công dân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật.”

Ngay cả Ban Thường Vụ Quốc hội cũng đã tìm mọi cách để ngăn chận Quốc hội không thi hành các quyền: “Miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao v.v…” như đã xẩy ra đối với trách nhiệm của Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng và các Bộ trưởng liên hệ trong vụ con tầu chìm Vinashin bị phá sản mất trên 8000 tỷ đồng tiền mồ hôi nước mắt của dân. Sự mạo nhận “pháp quyền” còn được đảng cả gan nói như con vẹt trong Cương lĩnh 2011: “ Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.”Nhưng thực tế đã chứng minh đảng nói một đàng làm một nẻo, dù Hiến pháp và các Luật lệ đã minh định trên giấy trắng mực đen đầy đủ các quyền của dân. Do đó, thay vì mất công sửa đổi và bổ sung vá víu thì đảng hãy can đảm nhìn ra bên ngòai xem có dân tộc nào trên thế giới sống giầu, nước mạnh mà phải đeo trên cổ bản Hiến pháp phản dân chủ và phi dân tộc như ở Việt Nam không?

Cuộc chiến giữa VN và Trung cộng sẽ xảy ra không?

Hành Khất

Trung Cộng (TC) hiện thời đang giữ một vai trò trong Liên Hiệp Quốc (LHQ), được thế giới Tây phương nể mặt qua sự phát triển vượt bực về kinh tế, qua những trợ giúp đầu tư không ngừng từ Âu Châu và Mỹ Châu, trước và sau hai nhiệm kỳ của Tổng Thống Mỹ, Clinton. TC đã thay thế địa vị của Liên Xô trong khối cộng sản, với “nghĩa vụ quốc tế” là mở rộng vòng đai cộng sản nhằm mục đích đối đầu với thế giới tự do. Hay nói đúng hơn là vòng đai “bảo vệ” chính TC.

Việt Nam (VN) là một mảnh đất lý tưởng nhất, để xây dựng cái vòng “bảo vệ” biên phòng đó, vì có địa lý rất thích hợp trong vùng biển Đông chạy dài và sự tiếp giáp các nước khác. VN luôn luôn được xem là trái tim của Đông Dương; điều đó đã cho thấy quá rõ qua những cuộc chiến trong lịch sử tại đây. Lẽ dĩ nhiên, TC sẽ không bao giờ bỏ mất bất kỳ cơ hội nào nhằm thu phục VN về mình. TC có hai đường lối thu phục VN: một là xem VN như một đồng minh hữu dụng, hai là… cưỡng chiếm biến thành một tỉnh toàn diện lệ thuộc TC. TC vẫn luôn cân nhắc xem đường lối nào thích hợp và nhất là đạt được “lợi lộc” nhiều nhất, theo tình hình biến chuyển của quốc tế nói chung và VN nói riêng. Vấn đề có thể đặt ra là tại sao VN cũng là một nước nằm trong khối cộng sản là một đồng minh, nhưng TC dường như lúc nào cũng không cảm thấy “an tâm” trong cái vòng đai “bảo vệ” cho mình?

Trở lại thời kỳ Mao, TC đang trong cơn hấp hối nghèo đói vì bị cắt đứt gần như hoàn toàn đối với thế giới bên ngoài. Qua những chương trình thay đổi và mở rộng của Đặng Tiểu Bình thích ứng trong hoàn cảnh chính trị mới của Tây phương, TC được tiếp cận bởi thế giới tư do. Từ đó, nền kinh tế cũng chuyển hướng theo mô hình Tây phương, để thu hút sự đầu tư của các nước ngoài vào TC. Ngày nay, VN cũng đang trong thời kỳ muốn vươn lên, dĩ nhiên bằng con đường kinh tế mở rộng như TC ngày xưa. Đáng lý ra, nếu đồng minh VN được phát triển mạnh TC phải tỏ ra vui mừng hơn vì có được sự hỗ trợ hữu dụng. Ngược lại, TC đang lo lắng và cảm thấy sợ hãi nếu … một mai VN phát triển mạnh qua những tiếp cận với nước ngoài, dân Việt sẽ trưởng thành nhanh hơn trong ý thức hệ, và nền dân chủ tự do của Tây phương sẽ lần lần đưa VN xa rời TC. Lịch sử đã ít nhất một lần ghi nhận điều đó, qua chữ viết Việt hoàn toàn khác xa Tàu, hay tiếng Nôm xa xưa cũng là một bằng chứng cho ý muốn độc lập. Đến khi đó, cái vòng đai “bảo vệ” sẽ tự biến thành một vòng đai “đe doạ” cho TC. Sự thu hẹp của khối cộng sản tạo nên vòng xiết thắt cổ, ảnh hưởng đến quyền lợi cá nhân của hệ thống cán bộ TC, một hình thức đại quy mô và được sử dụng đông đảo nhất thế giới. Bởi vậy, VN chỉ được xem là đồng minh hữu dụng “tạm thời” trong chiến tranh khi VN phải đứng trước tuyến đầu, bảo vệ TC bằng xương máu dân Việt. TC chỉ cần tiếp tế súng đạn xưa cũ, dư thừa cũng như tống đi được số lương thực mốc meo trong kho cho VN làm tròn nhiệm vụ. Và còn được VN phải chịu ơn qua những ký kết nhượng bộ về kinh tế, biên giới và lãnh hải. TC cũng thừa biết rằng, dân Việt là giống nòi khó có thể chịu khuất phục, nếu VN một khi đã có ý tách ra khỏi TC thì họ sẽ mất đi rất nhiều điểm lợi. Còn nếu trên bình diện vẫn là một đồng minh, TC không thể nào tự tiện gặt hái những cái lợi mà không bị dân VN lên án, đả kích dù rằng cs VN đã có những ký kết nhượng bộ ngấm ngầm với TC trước đó.

Trước sức mạnh quân sự của TC, trước và sau cuộc chiến 75, VN không đáng là một đối thủ mà chỉ là một nước nhỏ bé không đủ tài chánh tự trang bị vũ khí, thì làm sao nghĩ đến chuyện hiện đại hóa quân đội. Có nghĩa, nếu TC muốn cưỡng chiếm VN thì dư sức làm và đã hoàn tất từ lâu rồi. TC trót mang một vai trò trong LHQ, vì sĩ diện với quốc tế và nhất là một nước đàn anh duy nhất trong khối cộng sản vốn đã bị thu hẹp, TC khó lòng dấy lên cuộc chiến đánh chiếm VN. Một hoạch định được đưa ra nhằm “nắm giữ” VN, nhưng TC không cần hao tổn quân đội.

Cũng như ngày nào, TC đã đưa quân vào Tân Cương như một cuộc diễn hành biểu dương sức mạnh. Với ý đồ đó, TC thành lập những căn cứ quân sự từ đảo Hải Nam hướng Bắc, chạy dọc dài đến những quần đảo hướng Nam. Một bước đi, thu hoạch cả ba mặt về kinh tế, chính trị và quân sự: giải tỏa rộng vùng đánh cá và đặc quyền cho ngư dân TC; tạo nên cục diện vây kín, đặt áp lực và khả năng kiểm soát cận kề hơn trên VN; sức mạnh của vành đai cộng sản được nới rộng và cũng có thể dần dần khai mở những bước khác trong tương lai. VN dường như đang nằm gọn trong “vòng tay” TC, qua những ký ước ngấm ngầm trước 75 mà TC bắt buột VN phải thực hiện dù bằng bất kỳ phương án nào. Như một băng đảng mafia đi “đòi nợ” một cách chuyên nghiệp: trước khi bước vào nhà kẻ thiếu nợ, họ đã cho người vây bủa các lối đi, ngả thoát, thậm chí biết rõ giờ giấc thường xuyên ra vào và những người nào hay lui tới. Họ không cần thanh toán kẻ mang nợ chỉ đe dọa bằng bạo lực, vũ khí ngay cả những người có sự liên hệ với kẻ đó. Dĩ nhiên, món nợ luôn được tính thêm bằng con số phần trăm lời theo quy định của họ theo thời gian, cùng sự bỏ công tìm đến. Nói đơn giản hơn, TC đang lên kế hoạch “phong toả” VN trên mọi mặt, nhằm biến VN trở thành một Tân Cương mới hay một Quảng Đông, Quảng Tây xa xưa cũng từng là vùng đất thuộc VN.

Trong “chế độ tự trị” mà TC ban cho đó, sẽ luôn luôn nằm trong sự kiểm soát, phải tuân hành theo ý muốn TC và nhất là phải tự dâng hiến tài nguyên và cống nạp tài chánh theo luật định của TC. Đồng thời, TC giải quyết được nạn nhân mãn đang vượt quá mức định trên vùng đất rộng lớn nhưng không đủ của họ. Chính sách thực dân sẽ dần dần đồng hóa người địa phương một cách hữu hiệu: không cần động binh, nhưng vẫn có thể chiếm ngụ hoàn toàn. Và sẽ trở thành một tỉnh của TC khi họ cảm thấy cần thiết và có lợi hơn.

Vấn đề có thể nghiệm lại theo một câu hỏi đặt ngược: “Tại sao TC không tiến hành kế hoạch “nắm lấy” VN sau cuộc chiến 75 chấm dứt?” Chỉ trong thời gian gần đây, dân Việt đang lo sợ một cuộc chiến rộng lớn với TC qua những cuộc biểu tình chống đối từ Bắc đến Nam. Nhưng những điều đó không hề từng xảy ra từ sau cuộc chiến 75, dù đã hơn một lần TC động binh nơi biên giới. Nếu xét về chủ lực quân đội, VN vĩnh viễn không có đủ khả năng đối đầu nếu một trận chiến được mở rộng. Đó cũng chỉ là một trong những bước trong kế hoạch dài hạn nhưng vô cùng hữu hiệu cho kết quả: ít tốn kém và hưởng trọn. Trước nhất là TC làm cho VN bị hao mòn dần số vũ khí được vay mượn hoặc cung cấp từ TC và Liên Xô khi xưa, cũng như đo lường lại sức đề kháng của đối thủ. Bước kế tiếp là tung ra những đòi hỏi về chính trị, kinh tế và ngay cả đất đai nơi biên giới. TC đã thành công và tiến hành bước nữa: trấn chiếm hải đảo và kiểm soát vùng biển. VN bị vây tỏa và thiếu vũ khí, đồng minh tương trợ. Một con đường duy nhất là chui sâu vào rọ, như một con cá mệt mỏi tìm lối thoát. Và kẻ đặt rọ chính là TC chỉ cần nhắc lên bắt lấy, mà không tốn một miếng mồi. Cũng có nghĩa TC không bao giờ ngu xuẩn phát động chiến tranh với VN, một nước không đủ khả năng chiến đấu lâu dài. Chỉ làm hao tổn quân đội TC và mang tiếng với thế giới bên ngoài, cũng như trong khối cộng sản. TC muốn VN sẽ phải tự nguyện “thần phục” thiên tử, như vậy TC đương nhiên hợp lý trên luật pháp quốc tế là chủ nhân VN.

TC sẽ không phải xem VN như là một “đồng minh” trên bình diện quan hệ và sẽ “chiếm” được nhiều lợi lộc hơn trên mọi mặt, nhất là vấn đề kinh tế. Và càng không phải lo lắng cái vòng đai bảo vệ cho TC bị hư hại. VN có thể tự lo phát triển để sống còn, nhưng trong khuôn khổ quy định có sự đồng ý của TC. Một hình thức “nô lệ” thời đại mới của thế giới cộng sản ra đời, theo mô phẩm “chư hầu” của thời phong kiến xa xưa. Lịch sử VN rồi đây sẽ bị nhiều thay đổi, và đã đang thay đổi một số để bắt đầu cho ngày mai. Hôm nay, vấn đề sống còn của đất nước không còn tùy thuộc vào lòng yêu nước của dân Việt như Hội Nghị Diên Hồng xa xưa, do chính triều đình đương thời mở ra. Giả như một khi, triều đình đó không tổ chức Hội Nghị, có ai dám nghĩ VN đã có thể đánh đuổi được ngoại xâm không? Và giả như, triều đình đó chịu hàng phục buông vũ khí, thì lòng dân dù có sôi sục bao nhiêu cũng không thể dùng tay không chống giặc.

Những cuộc biểu tình chống TC một cách tự phát, đã biểu hiện lòng dân luôn là một sức mạnh hậu thuẫn cho chính phủ. VN đang có được sức mạnh đó, nhưng chính phủ VN có dám mạnh dạn bức phá cái bẫy rọ đó không? Hay chỉ vì quyền lợi cá nhân, đảng phái họ khó lòng từ bỏ? Không ai là người mà không biết sợ cái chết. Nhưng đứng trước hiểm họa lâu dài trên dân tộc có mấy ai có thể làm ngơ, trừ khi chính quyền lợi của họ bị mất đi? Thực tế xét rằng, VN còn cơ hội tự giải thoát chính mình, khi tiếng kêu cầu cứu vang lên, đập nước tung xoá, được chú ý đến bởi người qua đường. Và trong nỗ lực đó, chính VN nên có một ý thức phân định “đồng minh” rõ hơn, nếu không muốn bàn tay nào đó nhắc cái rọ lên và “nắm lấy.”

Việt Nam trên bàn cờ của các nước lớn

Hải quân Mỹ thăm Việt Nam

Theo: x-cafevn.org


1. Chính trị ở Đài Loan:

Từ năm 1979, trên thực tế là khi Washington – Bắc Kinh mặc cả sau lưng thì dù được Quốc hội Mỹ trấn an bằng cách thông qua Đạo Luật Quan hệ Đài Loan, nhưng Đài Bắc bắt đầu biết mình, biết ta. Dĩ nhiên, ở lãnh thổ này thì ý tưởng li khai lúc đó vẫn rất mạnh mẽ. Nhưng dần dần, đã có những thay đổi quan trọng.

Thứ nhất, việc Hongkong được trao trả về Trung Quốc trong mô hình “một nhà nước, hai chế độ” êm đẹp, thuyết phục người dân Đài Loan vào một tương lai tương tự. Thứ hai, ưu thế quân sự của Trung Quốc đã lên tới mức ước tính là Đài Loan chỉ có khả năng cầm cự trong vòng 1 tuần nếu xảy ra chiến tranh mà không có ngoại viện. Và thứ ba là những thành quả kinh tế của Trung Quốc và vị thế trên thế giới cho thấy việc quay lại với “đất mẹ” cũng không đến nỗi tệ.

Cho nên, dù chính trị Đài Loan vẫn đang bị xâu xé bởi các xu hương ly khai và thống nhất, các bên liên quan vẫn tích cực tác động để tìm cách giữ nguyên hiện trạng, nhưng về lâu dài thì có vẻ như tương lai “một đất nước” là khá chắc chắn.

2. Việt Nam trên bàn cờ khu vực:

Tương lai này khiến cho mọi quốc gia trong vùng hay có quyền lợi trong vùng buộc phải có động thái chuẩn bị.

Đầu tiên là Nhật Bản. Từ trước đến nay, Trung Quốc vẫn không công nhận chủ quyền quần đảo Ryuku và Okinawa của Nhật vốn là một mối lo, nay khả năng những con đường hàng hải huyết mạch đi qua Đài Loan đến Nhật Bản thuộc quyền kiểm soát của Trung Quốc lại càng khiến Nhật lo ngại hơn. Cho nên, từ năm 2000, Nhật bắt đầu tái vũ trang, và gần đây nâng Cục Phòng vệ Nhật Bản thành Bộ Quốc Phòng. Song song đó, Nhật triển khai chiến lược ngoại giao mới, tìm cách thắt chặt hơn nữa quan hệ với ASEAN mà đặc biệt chú trọng Việt Nam.

Sau Nhật dĩ nhiên là Mỹ. Hiện Mỹ đang sa vào tình thế vừa phụ thuộc, lại vừa phải dè chừng Trung Quốc, và Trung Quốc đang trở thành mối quan tâm chính yếu của Mỹ. Cho nên, Mỹ vẫn phải duy trì chiến lược kìm toả Trung Quốc suốt nhiều thập kỷ qua, để có thể sử dụng nó làm một quân bài mặc cả khi cần thiết. Chiến lược này chắc chắn không thay đổi về bản chất quan hệ hai nước, cho dù ngoài mặt Mỹ đôi lúc thể hiện như “không quan tâm” và “không có nhiều lợi ích trong vùng”.

Một mặt khác, bản thân Nhật và Mỹ lại có quan hệ đồng minh thân thiết với những ràng buộc quyền lợi bên ngoài chiến lược chung với Trung Quốc. Cho nên, duy trì thành công chiến lược kìm toả Trung Quốc cũng nằm trong ý đồ bảo đảm an ninh cho đồng minh quan trọng này.

Vì thế, vì vị trí địa lý đặc biệt của mình, hầu như đương nhiên Việt Nam được Mỹ lựa chọn làm ứng viên cho vị trí mà Đài Loan đang nắm giữ.

3. Việt Nam trên bàn cờ Trung Quốc:

Kể từ ngày đuổi được Quốc Dân Đảng chạy ra Đài Loan, thì Trung Quốc luôn bị áp chế trong thế kìm toả: Phía Đông Bắc là Nam Hàn, phía Đông là Nhật Bản, phía Đông Nam là Đài Loan và phía Nam là Việt Nam. Vì thế, một cách hoàn toàn tự nhiên là họ phải tìm cách phá thế kìm toả ở các mặt này.

Từ đặc điểm địa lý cũng sẽ đi đến kết luận tương tự.

Trung Quốc có diện tích đất đến hơn 6 triệu km2. Mặt Bắc và Tây giáp với Mông Cổ, Nga, Ấn Độ với những địa hình khó khăn cho giao thương, thuận lợi cho phòng thủ. Với việc chiếm lấy Tân Cương, Trung Quốc coi như đã loại trừ mối đe doạ từ phía Ấn Độ. Và Nga thì Trung Quốc không phải lo lắng nhiều, do Nga có điểm yếu cố hữu là mặt Tây hoàn toàn trống trải lại đang bị thu hẹp biên giới, mặt khác sinh suất của Nga quá thấp nên chẳng mấy chốc mà Nga không còn đủ dân để sống và bảo vệ đất nước rộng lớn của mình.

Ở mặt Đông Bắc với Hàn Quốc là đồng minh thân cận của Mỹ, thì chắc chắn Trung Quốc sẽ tìm cách duy trì Bắc Triều Tiên như một vùng đệm. Nhất là khi Bắc Triều Tiên đã có vũ khí hạt nhân, thì Trung Quốc càng không muốn nhìn thấy một bán đảo Triều Tiên thống nhất, thân Mỹ và có vũ khí hạt nhân. Nên nỗ lực của Trung Quốc ở khu vực này cũng là dễ hiểu.

Như vậy, vấn đề còn lại là hai mặt Đông và Nam.

Về kinh tế, mặt Đông quan trọng vì nó liên quan đến giao thương qua Thái Bình Dương. Còn mặt Nam quan trọng vì đấy là con đường giao thương qua Ấn Độ Dương. Đường hàng hải phía Nam còn là con đường dầu mỏ từ Châu Phi – Trung Đông về, nên nó chính là huyết mạch an toàn năng lượng của Trung Quốc.

Kiểm soát được hai mặt này là vừa bảo đảm quốc phòng, vừa bảo đảm cho tương lai của nền kinh tế. Chính vì thế, mà tất yếu Trung Quốc phải đầu tư vào hải quân với chiến lược Đại dương Xanh của mình. Và Việt Nam cùng với Biển Đông là một vị trí quan trọng tất yếu trong chiến lược đó, mà hành xử của Việt Nam trong tương quan với Mỹ sẽ quyết định thái độ ứng xử của Trung Quốc.

4. Việt Nam trên bàn cờ lớn Trung – Mỹ:

Trong quan hệ Trung – Mỹ từ năm 1949 tới nay, ba yếu tố: đối đầu, hoà hoãn và hợp tác đan xen với nhau. Ngay cả khi một yếu tố nổi lên làm chủ đạo, thì vẫn có mặt một hoặc cả hai yếu tố kia. Xét tính chủ đạo, thì giai đoạn 1949-1972 đối đầu, 72-79 là đối đầu có hoà hoãn, từ năm 1979 đến 1990 là hoà hoãn có hợp tác. Thập niên 1990 là hợp tác trong hoà hoãn, và từ những năm 2000 đến nay, khi Trung Quốc hiện đại hoá quân đội và hải quân, thì yếu tố đồi đầu đang từ từ mạnh lên.

Vị trí của Việt Nam trên bàn cờ lớn này đương nhiên là liên quan mật thiết đến xu hướng nào là chủ đạo, và chiếm thế chủ đạo trong trong giai đoạn nào.

Trước hết, cần phải nói rằng xét về lịch sử, bất chấp ai lãnh đạo thì nhìn chung cả Trung Quốc và Mỹ đều là những tay chơi cờ xuất sắc và khá kiên nhẫn. Thứ hai, bàn cờ quốc tế hiện đại nảy sinh ra những ràng buộc quyền lợi chung đa dạng. Một mặt khác, trình độ kinh tế đương nhiên là có ảnh hưởng quyết định đến quan hệ này theo quy tắc: Trung Quốc yếu thì hợp tác là chủ đạo, Trung Quốc mạnh lên thì sẽ tất yếu có đối đầu để tái phân chia ảnh hưởng trên khu vực và trên toàn cầu.

Cho nên, thái độ và hành xử của hai nước này trong nhiều thập kỷ tới hầu như chắc chắn vẫn là hoà hoãn có đối đầu.

Trong tình hình đó, hành xử của Trung Quốc đối với Việt Nam sẽ đi theo một trong các kịch bản sau:

1. Nếu Việt Nam ngả theo hướng thân Mỹ, thì tất Trung Quốc buộc phải chiếm Trường Sa bằng vũ lực.

2. Nếu Việt Nam cũng chọn thái độ hoà hoãn, thì Trung Quốc sẽ tìm mọi cách đưa Việt Nam và vòng ảnh hưởng của mình.

Trong mọi tình huống, lựa chọn thái độ hợp tác với Việt Nam hầu như nằm ngoài dự tính của Trung Quốc. Điều này xuất phát từ nhận định của Trung Quốc về Việt Nam, rằng vị thế của hai nước từ trong lịch sử và mãi mãi là ở vị thế tranh chấp, và Việt Nam chưa bao giờ là một đồng minh hay đàn em đáng tin cậy cả. Cho nên, ngay cả lựa chọn thái độ hoà hoãn, thì Trung Quốc cũng tin chắc rằng hoà hoãn chỉ là nhất thời mà thôi.

Từ góc nhìn của Mỹ, thì để bảo đảm cho chiến lược kìm toả Trung Quốc của mình không bị vỡ, thì phải giữ cho được mục tiêu là Trung Quốc không khống chế được Việt Nam và không chiếm được Trường Sa. Đương nhiên, người Mỹ biết rõ về lịch sử đẫm máu của hai quốc gia này và những gì cả hai nghĩ về nhau, nên họ tin rằng họ luôn có cơ hội ở Việt Nam khi họ muốn.

Tuy nhiên, những cân nhắc về quyền lợi của họ ở Việt Nam thì luôn gắn với cân nhắc về thể chế. Cho nên, các kịch bản tương ứng của họ sẽ là:

1) Tìm cách giữ nguyên trạng tình hình chính trị ở Đài Loan càng lâu càng tốt, ngoài những lý do liên quan đến Đài Loan- Mỹ, thì còn vì họ cho rằng Việt Nam chưa sẵn sàng để làm bạn với Mỹ, đồng thời bản thân họ cũng chưa vào thế kẹt để chấp nhận làm bạn với Việt Nam.

Trong việc này, hiển nhiên họ phải đối mặt với rủi ro là Trung Quốc có thể bất ngờ tấn công Trường Sa, loại bỏ vai trò chiến lược của Việt Nam đối với thế kìm toả của Mỹ. Cho nên, để có thể giúp Việt Nam bảo vệ Trường Sa lúc chưa có một hiệp ước chính thức, Mỹ sẽ hành xử theo 3 điểm như sau:

a) Khuyến khích Việt Nam tham gia vào các cơ chế đa phương và hỗ trợ cho các cơ chế này.

b) Một mặt khác, họ có vài động tác hỗ trợ quân sự cho Việt Nam để hãm bớt những toan tính của Trung Quốc.

c) Xây dựng những quan hệ lợi ích cơ bản, nhằm dự phòng làm tiền đề cho quan hệ gần gũi hơn sau này.

2) Trường hợp Đài Loan chắc chắn về với Trung Quốc thì buộc Mỹ vào thế phải làm bạn với Việt Nam, và chắc chắn là Mỹ phải có những động thái sớm nhất có thể, nhằm loại bỏ nguy cơ Trung Quốc bất ngờ chiếm Trường Sa. Để làm động thái này, có lẽ trước đó Mỹ phải chuẩn bị cho Việt Nam vào trong một cơ chế đa phương hay một cơ chế kinh tế nào đó của mình (cũng có thể chỉ là một liên doanh khai thác dầu khí) để có thể danh chính ngôn thuận triển khai Hải quân ở khu vực Biển Đông.

3) Trường hợp Việt Nam lựa chọn đường lối thân Trung Quốc: Dĩ nhiên với Mỹ đây là lựa chọn xấu nhất có thể, vì trong trường hợp này họ buộc phải tìm cách can thiệp tích cực vào tình hình chính trị của Việt Nam, với suy nghĩ đương nhiên rằng một chính quyền dân chủ ở Việt Nam sẽ phụ thuộc vào Mỹ, ít nhất cũng phải thân Mỹ.

Cho nên, ngay trong lúc này, Mỹ vẫn phải chơi ván bài hai mặt với Việt Nam: một mặt là xích lại gần hơn với Việt Nam hiện tại, một mặt kia là lựa chọn và ủng hộ cho phong trào dân chủ nhằm dự phòng cho phương án 3 trên đây.

NHỮNG LỰA CHỌN CỦA LÃNH ĐẠO VIỆT NAM

Có thể nói hiện tại lãnh đạo Việt Nam đang phải đối mặt với những nguy cơ như sau:

Nguy cơ mất lãnh thổ từ phía Trung Quốc: Vì Trường Sa quá quan trọng đối với chiến lược Đại dương Xanh của Trung Quốc, nên việc lấy Trường Sa chỉ là vấn đề “bằng cách nào”, trong cân nhắc với quan hệ Việt – Mỹ và thể diện quốc tế của chính mình.

Cho nên, hành xử của Trung Quốc sẽ đi theo một trong 3 sách lược như sau:

1. Thượng sách: Gây sức ép nặng nề lên Việt Nam để đạt mục tiêu chia sẻ quyền khai thác dầu ở Trường Sa, và sau đó sẽ tính đường chiếm đoạt một phần hoặc toàn phần quần đảo này một cách hoà bình (Biện pháp này từng được thảo luận như là giải pháp lâu dài cho Trường Sa, nhưng thực chất là con đường cực kỳ nguy hiểm cho Việt Nam)

2. Trung sách: Nếu Việt Nam có ý ngả sang Mỹ, hoặc nội bộ Việt Nam có vấn đề, thì ngay lập tức chiếm đoạt Trường Sa bằng vũ lực trong điều kiện Mỹ chưa có lý do chính đáng để triển khai Hải quân ở Biển Đông (Trung Quốc sẵn sàng làm điều này nếu tin tưởng rằng việc chiếm Trường Sa hoàn thành trong vòng vài ngày).

3. Hạ sách: Giải quyết vấn đề Trường Sa trong tổng thể bàn cờ tay đôi với Mỹ bằng cách vừa tăng cường ảnh hưởng lên nền tài chính của Mỹ, vừa tích cực chạy đua hải quân với Mỹ nếu như Mỹ kịp thời có mặt ở Biển Đông (Mỹ phải dàn trải lực lượng khắp các đại dương, nên Trung Quốc có khả năng giành ưu thế cục bộ trong khu vực Biển Đông).

Trong 3 sách lược đó, hiện tại Trug Quốc có vẻ như đang áp dụng thượng sách, nhưng luôn phải quan sát phán đoán thời điểm để sẵn sàng chuyển qua trung sách.

Nguy cơ thay đổi chính trị từ phía Mỹ: Đối với Mỹ, việc cải thiện tình hình dân chủ ở Việt Nam là cần thiết, nhưng được đặt trong bài toán về vai trò của Việt Nam trong cân nhắc quyền lợi của mình theo các trường hợp như sau:

1. Trường hợp bức bách: Khi Việt Nam vẫn giữ thái độ chưa rõ ràng và thời gian Đài Loan về với Trung Quốc là cận kề, hoặc khả năng Trung Quốc sử dụng trung sách cao, thì Mỹ vào thế phải giành lấy ảnh hưởng ở Việt Nam bằng mọi giá, trong đó có thể có cam đoan không can thiệp vào tình hình chính trị của Việt Nam.

2. Trường hợp hoà hoãn: Khi Việt Nam giữ thái độ chưa rõ ràng và tình hình Đài Loan cho phép, hoặc Việt Nam có một vị thế hoà hoãn tương đối với Trung Quốc, Mỹ sẽ chỉ tác động nhẹ đến tình hình chính trị bằng hình thức ngoại giao, song song với ủng hộ ngầm cho các phong trào dân chủ.

3. Trường hợp xấu nhất: Khi Việt Nam bộc lộ thái độ ngả về Trung Quốc, thì dĩ nhiên Mỹ buộc phải can thiệp tích cực vào tình hình chính trị ở Việt Nam.

Lựa chọn khả dĩ của Việt Nam: Phân tích nguy cơ từ phía Trung Quốc thì rõ ràng là lãnh đạo Việt Nam không có nhiều lựa chọn – ngay khi khả năng chia sẻ tài nguyên Trường Sa vừa ló dạng, thì chắc chắn Mỹ sẽ chọn phương án hành xử thứ ba, và khả năng xấu nhất là nội bộ ban lãnh đạo bị chia rẽ. Kết hợp cả khả năng Trung Quốc sẽ lợi dụng đục nước béo cò, thì đây sẽ là lựa chọn khó có khả năng xảy ra.

Cho nên, các nước cờ của lãnh đạo Nhà nước có thể sẽ là:

1. Kéo dài trạng thái hoà hoãn: Mục tiêu của nước cờ này là một mặt thuyết phục Trung Quốc không sử dụng trung sách, một mặt chờ cho tình hình Đài Loan rõ ràng hơn (để trở nên quan trọng hơn), nhằm giành ưu thế khi nói chuyện với Mỹ.

2. Tìm kiếm sự bảo vệ an ninh của Mỹ ở Biển Đông: Khi nguy cơ Trung Quốc sử dụng trung sách khá rõ ràng, thì Việt Nam buộc phải bắt tay chia sẻ khai thác Trường Sa với Mỹ, để Mỹ có thể danh chính ngôn thuận triển khai Hải quân ở đây. Đương nhiên, đây là việc cực kỳ nhạy cảm với Trung Quốc, nên Việt Nam buộc phải đi nhiều nước cờ nghi binh phức tạp.

3. Chọn thời điểm đàm phán với Mỹ: Việc chọn đúng thời điểm đàm phán là tối quan trọng để cân đối được lợi ích toàn vẹn lãnh thổ với lợi ích chính trị của Việt Nam.

Ứng với sách lược như trên, thì những biện pháp tiên quyết hiện tại phải là:

– Giữ ổn định chính trị trong nước: Đây là điều kiện căn bản nhằm tránh Trung Quốc đục nước béo cò.
– Nhượng bộ Trung Quốc một số điểm ít quan trọng chiến lược hơn trong điều kiện Trung Quốc gây áp lực mạnh về phương án chia sẻ khai thác Trường Sa.
– Tiếp tục tăng cường phòng thủ Biển Đông cùng với các biện pháp ngoại giao tích cực khác (trong đó có cả ngoại giao quân sự với Mỹ) nhằm tạo cảm giác khó khăn cho Trung Quốc.

ĐE DOẠ BÊN NGOÀI CÓ THỂ CHUYỂN THÀNH BÊN TRONG NHƯ THẾ NÀO?

1. Nền tảng ủng hộ của người dân dành cho thể chế:

Về cơ bản, thể chế XHCN ở Việt Nam hiện đại bắt đầu từ một phong trào giải phóng dân tộc, và có thể nói rằng, nền tảng ủng hộ của người dân dành cho phong trào này từng thời kỳ có thể tóm tắt như sau :

– Từ 1930 – CMT8: Độc lập dân tộc
– Từ CMT8 – 1975: Độc lập dân tộc + lý tưởng XHCN
– Từ 1975 – 1990: Lý tưởng XHCN + ổn định chính trị
– Từ 1990 – nay: Ổn định chính trị + phát triển kinh tế

Từ khi Liên Xô và khối XHCN sụp đổ, thì cái nhìn mơ hồ về một lý tưởng XHCN được xây dựng trong suốt thời kỳ trước đó không còn cơ sở thực tế để tồn tại. Trong suốt thời kỳ này (đoạn này bị cắt bỏ so với bản gốc) mặc dù Đảng CSVN đã rất cố gắng tìm kiếm một tầm nhìn mới để tìm lại sự ủng hộ của người dân trước đó, tuy nhiên, thành công hầu như duy nhất của Đảng CSVN tạo dựng được về mặt tuyên truyền là “Sự lãnh đạo của Đảng là thành tố cơ bản cho sự ổn định chính trị, là tiền đề cho việc phát triển kinh tế”.

Song song với luận đề này, thì các yếu tố đa nguyên, dân chủ, dân quyền được tuyên truyền như là các yếu tố gây bất ổn, còn các phong trào đòi hỏi những giá trị này được đánh giá là “phản động”. Và thể chế không ngần ngại trong việc sử dụng sức mạnh chuyên chế, vì nhận định rằng nếu không hành động như thế thì sẽ mất ủng hộ của người dân.

Từ phía người dân, họ chuyển sự quan tâm của mình đến những nhu cầu cấp bách hơn của cuộc sống và trở nên xa lạ với chính trị, hoặc chỉ đơn giản là chấp nhận cách lý giải đó.

Và ổn định xã hội trở thành giá trị cốt lõi của thể chế.

Thế nhưng, dưới những tác động của các nguy cơ đến từ bên ngoài như đã phân tích, thì giá trị này có nguy cơ bị phá vỡ.

2. Đe doạ mất lãnh thổ có tác động như thế nào?

Một cách hoàn toàn tự nhiên, người Việt Nam có tinh thần dân tộc chủ nghĩa rất cao, cho nên nguy cơ mất lãnh thổ hoặc những áp lực từ phía nguy cơ này sẽ nhanh chóng được diễn dịch thành sự bất ổn từ hai hướng:

– Những hành động hay chính sách mang xu hướng nhân nhượng hay thoả hiệp đối với Trung Quốc đều có khả năng được diễn dịch trực tiếp thành sự suy thoái lòng tin, bắt đầu từ lòng tin về khả năng lãnh đạo nói chung và khả năng giữ ổn định nói riêng.

– Bản thân giới lãnh đạo ở các cấp cũng có khả năng phân hoá thành những nhóm chủ trương khác nhau, và khi áp lực càng tăng thì sự phân nhóm càng rõ rệt hơn và có thể biến thành những tín hiệu bất ổn.

Cả hai yếu tố này nếu kết hợp lại, thì sẽ làm suy yếu giá trị cơ bản của thể chế và do đó, nếu cộng hưởng lại sẽ có tác động rất nguy hiểm.

3. Đe doạ thay đổi chính trị tác động như thế nào?

Mặc dù sự can thiệp chính trị từ phía Mỹ vẫn có thể được coi là yếu tố bất ổn trong ngắn hạn, nhưng cái lợi có được – an ninh lãnh thổ nhờ quan hệ với Mỹ – lại là yếu tố ổn định. Nên khi áp lực từ nguy cơ mất lãnh thổ tăng lên, thì trong ý thức người dân xu hướng chấp nhận đánh đổi yếu tố bất ổn từ chính trị để đổi lấy ổn định nhờ an ninh lại tăng lên (đoạn này bị cắt bỏ so với bản gốc).

Một khía cạnh khác, trong giá trị cốt lõi của thể chế, sự phát triển về kinh tế là mục tiêu, còn giữ ổn định là phương thức. Mà với tiềm lực kinh tế của Mỹ, với những hình mẫu của Nhật Bản và Hàn Quốc trong quan hệ với Mỹ, qua lăng kính của người dân được diễn dịch dễ dàng thành cơ hội phát triển. Cho nên, khi nhìn thấy sự quan tâm trở lại của Mỹ, sự hấp dẫn của cơ hội có thể vượt qua sự e ngại về bất ổn trong ngắn hạn.

Một điểm khác nữa, bản thân xã hội Mỹ và nền kinh tế Mỹ có một sức hấp dẫn lớn. Cho nên sự công nhận từ phía Mỹ đối với các yếu tố đa nguyên, dân chủ sẽ có vai trò phản tuyên truyền, giúp làm nhẹ bớt cách nhìn về chúng như là “yếu tố bất ổn”.

Từ hai mô hình phân tích trên đây, thì chúng ta có thể thấy một số vấn đề:

– Áp lực từ phía Trung Quốc làm suy thoái giá trị ổn định của thế chế, làm lực đẩy hướng đến thay đổi.

– Những cái lợi từ phía quan hệ với Mỹ tạo ra ý niệm khác về sự ổn định, là lực đẩy hướng đến sự thay đổi.

Khi các xu thế này kết hợp đủ mạnh, thì nó hoàn toàn có khả năng tạo ra sự sụp đổ hoàn toàn của nền tảng ủng hộ, và nếu song song đó xuất hiện một lựa chọn nội bộ nào đó có khả năng đem lại ổn định, thì một “cửa sổ cơ hội” cho sự thay đổi có thể xuất hiện.

Theo dailynews.wordpress.com