Dương Thu Hương: Lột Trần Chế Độ Cộng Sản

Đối với thế giới, uy tín của chính quyền cộng sản Việt Nam đã mất từ lâu, mất một phần khi xảy ra cuộc chiếm đóng Cambodia, mất toàn phần khi làn sóng thuyền nhân tràn lên các đại dương và xác chết của họ trôi khắp bãi bờ các quốc gia khác. Với dân chúng trong nước, giờ đây họ thôi là nhà cầm quyền vĩ đại. Bởi sự thoát đồng đã xảy ra từ rất lâu, họ thôi là thượng đế và dân chúng thôi là những con nộm bị điều khiển bằng thứ tôn giáo do kẻ cầm quyền sáng tác. Dân chúng đã nhìn rõ bản mặt của họ: những con vật đi bằng hai chân, những con vật tham tàn, những con vật đang run sợ vì sự tham tàn của chúng không còn được bóng tối che đậy.

Lấy ví dụ về tập đoàn Vinashin. Mua một vỏ tầu cũ nát, đáy nứt, không thể vận hành, lấy sơn quét lên rồi rút hàng triệu đô la trong công quỹ. Hàng triệu đô la ấy quan lớn bỏ túi, còn con tầu “bãi rác” sơn bóng loáng kia được đặt trên đất liền để làm “hiện vật bảo tàng”.

Nhà cầm quyền Hà Nội lúc này chỉ còn tin vào nòng súng. Nhưng bất kì kẻ cầm súng nào cũng có lúc chết vì chính thứ vũ khí mà họ sử dụng. Bởi vì, chẳng có thứ vũ khí nào tự động nhả đạn. Vũ khí nào cũng cần bàn tay của con người, dù là bàn tay bấm nút chiến tranh hạt nhân hay bàn tay cầm dao găm, súng lục. Khi con người đã nhìn rõ sự thật, khi họ không còn bị huyễn hoặc bởi các trò mị dân, khi họ hiểu họ là ai và họ có thể làm chủ số phận của họ bằng cách nào, lúc ấy, các nòng súng sẽ đổi hướng.

Tiếng nhạc ầm ĩ trong ngày hội “Ngàn năm Thăng Long” hẳn đã át đi tiếng nức nở của trên năm mươi gia đình nạn nhân chết vì bão lụt ở miền Trung. Các quan chức Hà Nội không bỏ ra một nửa giây để tưởng niệm những kẻ xấu số. Họ quên. Cũng như họ đã từng quên những người dân đánh cá tỉnh Thanh bị giặc Tầu giết ngoài khơi, như họ quên các chiến sĩ đã bỏ mình trên biên giới vào cuộc chiến tranh năm 1979. . .

Họ quên và họ quên. Vậy họ nhớ điều gì?

Khi con gái họ có nhu cầu mua một chiếc váy cưới xấp xỉ 200. 000 euros tại đại lộ Champs Elysées thì họ phải nghĩ cách làm đầy thêm các ngân khoản ở ngân hàng ngoại quốc. Khi nhân tình của họ cần chiếc xe hơi sang trọng như xe của cô Hồ Thu Hồng thì họ phải nghĩ cách để kiếm cho bằng được chiếc xe ấy, để nàng khỏi tủi thân vì kém chị kém em. Khi ngôi lầu của họ chỉ đáng giá hai triệu đô la mà của kẻ khác giá gấp đôi thì họ phải tìm cách đuổi kịp và vượt hắn. Đó là mối quan tâm cốt lõi của giai cấp tư sản đỏ Việt Nam giờ đây, cái guồng quay cũ kĩ của đám mới giầu.

Ai đó từng nói câu này: “Trong giai đoạn tích luỹ tư bản, giai cấp tư sản có thể giết chết cha đẻ của họ để có tiền”.

Giai cấp tư sản đỏ Việt Nam cũng có chung một trạng thái tâm lý đó: khát tiền, làm mọi thứ để có tiền, bất kể phương tiện nào, dù đó là tội ác. Nhưng tư sản đỏ Việt Nam không cần giết bố, bởi họ có một đối tượng khác dễ giết hơn nhiều: dân đen. Họ không cần đốn ngã kẻ sinh thành bởi có thể hút máu dân đen một cách thoả thuê, vừa thoả mãn cơn khát tiền lại vừa yên ổn lương tâm vì không mắc tội giết cha.

Nghe tưởng như chuyện đùa. Nghe như tiếu lâm. Thứ tiếu lâm cười ra nước mắt. Chỉ có ở Việt Nam, nơi kẻ cầm quyền coi dân là lũ trâu bò, mới dám làm điều ngang ngược đó. Chỉ có ở xứ Việt Nam, khi tất cả các cuộc kí kết, thương thuyết của chính phủ đều diễn ra trong bóng đêm và dân chúng không được quyền biết đến mới có thể xảy ra hiện tượng này.

Lấy ví dụ thứ hai: các vụ buôn người. Dưới chế độ độc đảng, độc tài, ai có thể làm được điều này nếu không là chính các thành viên trong chế độ ấy. Tại sao lại buôn người? Vì buôn người thu lời nhanh nhất, mà vốn đầu tư coi như zero nếu có quyền hành. Cho nên, buôn người là nghề mới của đảng cộng sản Việt Nam, đảng thừa thãi quyền hành vì không có đối trọng.

Đã là lái buôn, ắt phải tham. Lòng tham mà không bị điều tiết bởi các điều luật thì nó sẽ phát triển vô cùng tận. Do đó, món hàng hoá có tên gọi là “dân đen”của các quan chức Việt Nam sẽ được khai thác tối đa để làm đầy túi các bậc trị vì dân. Khi đã coi dân chúng là hàng hoá, ắt người cộng sản phải tìm mọi cách để đám dân đen trở thành vật vô tri, tức là các công cụ, thứ công cụ này có chức năng sản xuất nhưng phải câm và phải điếc. Khi mà các công cụ dân đen không chịu nổi đàn áp, buộc mở mồm thì lập tức họ có cách để bắt nó phải câm. Vũ khí đó có tên gọi “chuyên chính”, bộ máy đàn áp trứ danh lâu nay.

Hãy đọc báo Công an nhân dân đưa tin về vụ xử ba thanh niên sáng lập công đoàn Tự do ngày 27 tháng 10 năm nay:
“Được Trần Ngọc Thành, kẻ cầm đầu Uỷ ban bảo vệ người lao động Việt Nam đưa Hùng, Hạnh sang Malaysia đào tạo, huấn luyện, rồi từ ngày 28/1 đến ngày 9/2/10, Trần Ngọc Thành đã chỉ đạo Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đỗ Thị Minh Hạnh, Đoàn Huy Chương thực hiện các vụ kích động biểu tình, rải truyền đơn ở Trà Vinh, Đồng Nai, Tp HCM, nội dung kêu gọi người dân chống lại Đảng, Nhà nước, kêu gọi đấu tranh để đòi dân chủ; lợi dụng các vấn đề còn thiếu sót trong chế độ lao động, tiền lương của công nhân ở một số khu công nghiệp để tổ chức tuyên truyền, kích động công nhân đình công, biểu tình, phá hoại máy móc, nhà xưởng, tài sản của doanh nghiệp. . . ”

Thứ nhất, tác giả bài báo này quên rằng “Kích động công nhân đình công, biểu tình, phá hoại máy móc, nhà xưởng, tài sản của doanh nghiệp” là đích xác các hành động của người cộng sản Việt Nam những năm trước cách mạng. Các hành động này cũng đã từng xảy ra ở nhiều quốc gia trên thế giới, khi giai cấp lao động không chịu nổi sự áp bức và bóc lột của đám chủ nhân. Các phản ứng tiêu cực này chỉ xảy ra khi sự thoả thuận giữa người làm công với kẻ trả công bị vi phạm và cuộc sống của người lao động bị đe doạ.

Phải chăng tác giả bài báo này cho rằng chỉ riêng đảng cộng sản vĩ đại của ông ta là được quyền sử dụng chiêu thức ấy còn những người khác thì bị cấm vì họ không được là người mà chỉ là thứ phẩm của người, tức “dưới người”, nói cách khác: “người vượn Néandertal”?
Tại sao lại “đãi nơi quần hồng”? Vì người cộng sản lúc này thôi còn là cộng sản, họ đã trở thành đám tư sản dù vẫn giữ vẻ mặt ngô nghê và bộ điệu lố bịch của kẻ cách đây chưa lâu còn lo le sợi dây giong lợn giống hoặc lúc lắc cái ống bơ đựng xu lẻ ăn mày. Khi đã đổi vai thì họ phải bám vào cái giai cấp tương lai của họ, giai cấp mới này chính là đám quần hồng, thế nên họ phải đãi đám quần hồng để còn kiếm chác phần đường mật trong đũng cái quần hồng ấy.

Thứ hai, câu “lợi dụng các vấn đề thiếu sót trong chế độ lao động, tiền lương của công nhân. . . ” chỉ là lối mỹ từ hoá sự vật. Nói một cách xác thực và dân giã, hiện nay các quan lớn cộng sản Việt Nam đang thực thi chính sách “bòn nơi khố quạnh, đãi nơi quần hồng”.

Tại sao lại “bòn nơi khố quạnh”? Vì ngu, vì tham, vì trước ngoại nhân thì dốt nát và khiếp nhược nên các quan lớn chỉ có lối kiếm tiền dễ nhất là bóc lột đồng bào mình, những người không có phương tiện để tự bảo vệ, những kẻ bị hà hiếp, bị tê liệt cùng một lần vì đói nghèo và sợhãi.


Sự thật đơn giản, nếu người ta nhìn thẳng vào nó
.

Nhìn lại lịch sử, ta dễ dàng chiêm nghiệm điều đó. Phải chăng triều Lý, triều Trần, triều Lê, triều Tây Sơn Nguyễn Huệ đều được khởi dựng sau các chiến thắng lẫy lừng chống kẻ xâm lăng? Ngoại trừ Đinh Bộ Lĩnh là viên tướng phất cờ khởi nghĩa dẹp loạn sứ quân, thống nhất đất nước, nói một cách dễ hiểu là viên tướng duy nhất xây dựng triều đình khi chiến thắng các cuộc nội chiến phân quyền, còn lại, những gương mặt sáng chói trong lịch sử đất Việt đều là những anhhùng chống Tầu và chống Nguyên – Mông. Các triều vua này từng tuyên bố “Sông núi nước Nam vua Nam ở”.

Cứ coi như Bộ trưởng Bộ Văn hoá dốt nát thì trên đầu ông ta còn mười một người trong bộ chính trị. Không lẽ cả mười một người này mắc chứng mất trí nhớ? Không lẽ cả mười một người này mắc bệnh thiểu năng?

Nếu để cho mười một kẻ thiểu năng đứng trên đầu trên cổ mình thì dân Việt xứng đáng là các bệnh nhân của trại tâm thần, một trại tâm thần khổng lồ chưa từng thấy mà trong đó các con bệnh bịtiêm thuốc ngủ liều cao liên miên nên đờ đẫn, không còn khả năng nhận thức sự vật xung quanh. Nếu không, họ đã bị bán đứng cho Tầu, và tương lai của họ, một tương lai không tránh được sẽ là bản sao lại sầu thảm của những người dân Tây Tạng hoặc Tân Cương một khi họ bó tay trước lũ bán nước.

Chọn ngày Quốc Khánh Trung Quốc để mở hội Ngàn năm Thăng Long là một biểu tượng hai mặt.

Đám cầm quyền hôm nay đã rơi từ đỉnh cao của sự “kiêu ngạo cộng sản” xuống vũng bùn của“các con lợn truỵ lạc phương Tây” mà trước đây họ thường sa sả chửi rủa, họ đang sống xả láng trong cảnh phồn vinh mà trước đây họ mỏi mồm lên án. Nói tóm lại, họ đang là thứ “khỉ khoác quần áo”, thứ “nhặt cái đuôi của bọn tiểu tư sản cắm vào lỗ mồm” như ông tổ hói đầu Lenin của họ từng cảnh báo trước đây.

Trong cuộc sống tối tăm, nhục nhằn của người nô lệ, các anh hùng đánh đuổi ngoại xâm chính là các bậc thánh sống, được tôn trọng, thần phục, ngưỡng mộ, và có toàn quyền trở thành các nhà sáng lập triều đình.

Và cuộc sống mái của họ là giành mục đích người Việt Nam là người Việt Nam, dẫu áo vải quần thâm nhưng đàn ông nhất quyết không cạo trọc, tết sam như gã A. Q, đàn bà không bó chân nhưcác mợ Tầu.

Tuân theo logic ấy, triều cộng sản được hình thành là nhờ nó có công trong cuộc cách mạng chống giặc Tây. Và người ta còn khoan dung cho nó là vì tính đến cái công ấy, cái công “dành độc lập dân tộc”, cái khả năng nốitiếp truyền thống của các Vua nước Nam nhất thiết phải ở đất nước Nam, coi sự tồn tại của non sông quý hơn tròng mắt của chính họ.

Cái tinh thần bất khuất ấy, còn hay chăng?
Còn hay chăng, tinh thần dân tộc của những người đã đổ máu đểcắm ngọn cờ hồng lên thành Hà Nội sáu mươi lăm năm trước, những cảm tử quân đã ôm bom ba càng vào mùa đông năm 1946 với lời thề “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”?

Nếu những anh hùng vô danh ấy có linh hồn, hẳn các linh hồn ấy giờ đây đang nức nở.
Nếu những hiển linh của các vua xưa có thể cất lời, thì lời đầu tiên họ nói sẽ là “Lũ người này đã phản bội lại dân tộc, bọn sâu bọnày đã bôi nhọ mặt chúng ta!”
Ngày Hội Ngàn năm Thăng Long diễn ra vào đúng ngày 1 tháng 10, thằng mù cũng biết đó chính là ngày Quốc khánh Trung Quốc. Tại sao lại là con số này? Tại sao có sự lựa chọn này? Vô ý chăng? Nhầm nhỡ chăng? Mất trí nhớ chăng?

1. Với triều đình Bắc Kinh chính phủ Hà Nội đã làm bản tuyên bố: Thành Thăng Long cũng chỉ là một bộ phận trong lịch sử mẫu quốc, nó phải được treo đèn kết hoa cùng một lần với đèn hoa của thủ phủ đại triều. Một khi thủ đô của một quốc gia đã định vị nhưvậy, có nghĩa quốc gia ấy tự xác nhận danh tính chư hầu một cách công khai. Sự kiện này là bản giao kèo bộc lộ lòng trung thành vô hạn và vô điều kiện của đám hàng thần Hà Nội.

2. Với dân chúng, đây cũng là lời tuyên bố thẳng thừng: Chúng tao bất chấp lịch sử, chúng tao có toàn quyền định đoạt vận mệnh đất nước. Kẻ nào chống lại, kẻ đó sẽ bị tiêu diệt.
Chọn ngày quốc khánh Trung Hoa để mở hội Ngàn năm Thăng Long là bằng chứng hiển nhiên để mảnh vải rách cuối cùng che thân chế độ cộng sản rơi xuống. Họ đã trở thành kẻ bán nước, công khai hoá hành vi bán nước của mình.

Nếu như năm 1945, cha anh họlà các anh hùng giải phóng dân tộc thì giờ đây, trái lại, họ là những tên phản tặc, sỉ nhục của tổ tiên, chẳng những cắt đất, cắt biển dâng cho giặc mà còn đương nhiên ném bùn lên lịch sử. Người Việt Nam ta có câu “hổ phụ sinh cẩu tử”. Mà bọn người này, không những là những con “cẩu tử” mà còn là “cẩu ghẻ”, “cẩu sida”.

Những người cầm quyền Hà Nội thừa thông minh để hiểu rằng họlà những con cẩu ghẻ. Rằng trong dòng máu của bất cứ người Việt nào cũng lưu cữu một thành tố có tên gọi “chống ngoại xâm”, mà thứ ngoại xâm thống trị lâu dài nhất, tàn độc nhất, để lại các kinh nghiệm đau thương sâu đậm nhất trong kí ức là “giặc phương Bắc”.

Cuộc thực dân hoá của Pháp 100 năm chỉ là cơn bão chóng qua so với thời kì bắc thuộc của giặc Tầu. Họ biết rằng bất cứ kẻ nào phản lại truyền thống đấu tranh dân tộc, kẻ đó mất chỗ đứng trong lòng dân chúng. Ngày hôm trước còn được tung hô hoàng đế, hôm sau đã biến thành “Thằng chó săn, thằng phản tặc, phường bán nước”.

Đó là trường hợp vua Lê Chiêu Thống đã phải chịu do hành vi bán nước của ông ta. Còn câu ca “Nguyễn Ánh cõng rắn về cắn gà nhà” mãi mãi là bài học lịch sử tố cáo tội ác của kẻ đặt lợi ích dòng họ trên quyền lợi dân tộc. Giờ đây, nhà cầm quyền Hà Nội biết rằng họ đã bị đẩy sang bên kia đường biên, họ rơi vào cùng một bè lũ với Lê Chiêu Thống và Nguyễn Ánh.

Để đặt tên cho họ một cách rõ ràng và chính xác, tôi xin nhại lại câu “cõng rắn về cắn gà nhà” của các cụ xưa mà rằng nhà cầm quyền Hà Nội giờ đây là bọn “dẫn hổ về thịt dê nhà”


DẪN HỔ VỀ THỊT DÊ NHÀ

Tại sao lại là hổ và dê?
Hổ, vì vương triều phương Bắc bây giờ mạnh hơn thực dân Pháp năm xưa nhiều lần, để so sánh một cách chính xác thì phải dùng hình ảnh con hổ chứ không thể là con rắn.
Dê, vì nhìn lại bản đồ, bạn đọc sẽ thấy rằng toàn bộ bán đảo Đông Dương có thể ví như một con dê mà Tây nguyên chính là phần sống lưng con dê đó. Một khi con hổ Trung Hoa cắm được móng vuốt lên chính giữa lưng con dê này, coi như số mạng con dê đã nằm trong hai hàm răng của nó.

Đế quốc Trung Hoa sẽ trải rộng khắp châu Á. Việt, Miên, Lào sẽ trở thành các tỉnh thành khác nhau của Trung Hoa, “công đầu” này thuộc về ai nếu không là nhà cầm quyền Hà Nội, kẻdựng lên công trình bauxite Tây nguyên?
Bauxite ư? Trò lừa đảo!

Thiếu gì các quặng bauxite rải rác khắp miền Bắc Việt Nam, tại sao không là Lào Cai, Yên Bái hay Cao Bằng mà lại là Tây Nguyên? Vả chăng, khai thác bauxite để làm gì? Kiếm tiền chăng? Dối trá! Biết bao bài báo đã phân tích chán chê lợi hại về khai thác bauxite, kể cả các tài liệu trên thếgiới cũng công bố rộng rãi tác hại của nó, mà vụ gần đây nhất là Vùng bùn đỏ Hungaria. Còn có thể nói thêm được điều gì khi mà sự bán nước hiển nhiên đã bầy ra trước mặt dân chúng, giữa thanh thiên bạch nhật?

Hãy xem lại các hình ảnh đưa lên internet năm 2008 về vụ nông dân bị cướp đất biểu tình ở Sài Gòn. Những người dân cầy gầy gò xơ xác, đa phần là người già và phụ nữ, từ các tỉnh Tiền Giang, An Giang, Bến Tre, Long An, Bình Thuận đổ đến trước văn phòng Quốc hội 2 với các khẩu hiệu “Trả đất cho dân”, “Chống cửa quyền, tham nhũng”. Những người dân ấy đã bị đám công an và dân phòng béo múp vì bia rượu, mặt hằm hằm sát khí đối xử ra sao? Mấy thế kỉđã qua nhưng hình ảnh bọn người này vẫn là bản sao chính xác bọn nha lại mà Nguyễn Du đã mô tả trong Truyện Kiều:“Đầy nhà một lũ ruồi xanh” và“Đầu trâu mặt ngựa ào ào nhưsôi”.

Trong sự kiện này, tôi chú ý đến một chi tiết: công an đưa xe cứu hoả mang vòi rồng đến trấn áp dân chúng, nhưng trước khí thếcăm hờn của đám đông, công an bỏ chạy, hàng chục người dân trèo lên xe đứng. Hiện tượng đó chứng tỏ không phải lúc nào công an cũng tê liệt vì mù loà, luôn hành động như đám robot hoặc lũ chó berger. Trong lúc nguy khốn, họ đã tính toán và đã chọn con đường bỏ chạy để thoát thân.

Nhà cầm quyền Hà Nội hoàn toàn có ý thức về hành vi bán nước của họ, bởi con tính của họlà trở thành một thứ “Thái thú Tô Định hiện đại”, được hưởng đủ phần xôi thịt của Bắc triều.
Còn Việt Nam biến thành một tỉnh nào đó của Trung Quốc, mang tên Quảng Việt, Quảng Nam, Quảng Lạc. . . họ không cần quan tâm. Họ biết rõ rằng hành động của họ là đi ngược lại lợi ích của nhân dân, biết rằng không người Việt nào cam tâm làm nô lệ cho Tầu, rằng kinh nghiệm đau đớn của tổ tiên luôn luôn sống trong ý thức lẫn vô thức dân tộc, thế nên họ chủ trương đàn áp dân chúng, họ chủ trương dùng bàn tay sắt để bóp nghẹt cổ những ai muốn nói lời phản kháng. Không phải ngẫu nhiên mà năm 2009, thứ trưởng bộ nội vụ Nguyễn Văn Hưởng tức Trần đã công khai dọa nạt những người trí thức Việt Nam vào dịp viện IDS của tiến sĩ Nguyễn Quang A tuyên bố giải tán.

Ông nghị Trần nói rằng “Ở Việt Nam đảng độc quyền lãnh đạo nên không thể có phản biện. Phản biện tức là phản động. Các anh muốn phản biện hả? Nhà tù đang còn nhiều chỗ lắm. Nhưng chúng tôi cũng không cần đến nhà tù, chúng tôi có các phương tiện hữu hiệu hơn. Tai nạn xe cộbây giờ tổ chức rất dễ dàng. Còn một biện pháp rẻ hơn và nhàn nhã hơn: đầu độc. Các anh uống cà phê rồi khi về đến nhà thì cứng đơ ra mà chết. Những bài bản này thế giới sử dụng đã lâu, chúng tôi cũng không thua kém họ. . . ”
Những lời lẽ này nói lên điều gì nếu chẳng phải sự công khai triệt để của tính tội phạm và tư cách chó? Một chính thể không còn lý do chính đáng để tồn tại thì chỉ có thể duy trì bằng bạo lực, chỉ có thể sử dụng bọn tội phạm, bọn sát nhân, bọn cặn bã xã hội, tóm lại, bọn chó giữ nhà. Không còn lý tưởng, không còn đạo đức, ngập chìm trong tham lam, truỵ lạc, con người trượt từ chữ NGƯỜI sang chữ CON.

Bác chúng em

Vào những năm 1989, 1990, tôi có vinh hạnh làm quen và gặp gỡ ông Lê Giản, người công an đầu tiên của Việt Nam, người lãnh đạo bộ máy cảnh sát từ những năm đầu cách mạng. Ông Lê Giản đích thực là “Người công an nhân dân, từ nhân dân mà ra, do dân và vì dân”. Tôi hiểu vì sao cuộc kháng chiến thành công. Kháng chiến thành công vì có những người như ông Lê Giản. Nhưng ông Lê Giản đã chết và“Người công an nhân dân”cũng đã chết theo. Cái chết này xảy ra từ từ với thời gian, một cái chết âm thầm, nhưng không phải là vô hình vô ảnh.

Tôi chứng minh:
Cách đây ngót ba thập kỉ, khi những lượt hoa quả đầu tiên từphương bắc tràn vào nước ta, các phòng phân tích thuộc Bộ Nội vụđã báo cáo lên bộ chính trị rằng các thứ hoa quả này đều tẩm formaldéhyde (thuốc ướp xác chết) vô cùng độc hại cho người tiêu dùng vì nó phá huỷ mô liên kết của các tế bào và là tác nhân gây ra bệnh ung thư.
Bộ chính trị ra lệnh cấm phổ biến sự thực trên vì “sợ mất lòng nước bạn”. Các sĩ quan công an chỉ có thể ngăn cấm chính vợ con họ và rỉ tai những người thân cận nhất (anh em ruột, cha mẹ vợchẳng hạn), đối với người ngoài, họ tuyệt đối tuân thủ mệnh lệnh cấp trên. Tuyệt đối im lặng. Tuyệt đối thản nhiên nhìn đồng bào mình ăn thứ đồ ăn nhiễm độc, biết chắc chắn rằng ngày một ngày hai họ sẽ ung thư và sẽ chết vì bệnh đó.

Tính kỉ luật của đám sĩ quan này mới cao thượng làm sao(!) Và cao thượng làm sao, những kẻngồi quanh bàn họp bộ chính trị, những bậc lương đống của triều đình, chịu trách nhiệm chăn dắt dân đen, đàng hoàng ra lệnh cấm rò rỉ sự thật vào tai dân chúng, bỏmặc mấy chục triệu người bị đầu độc và chết dần chết mòn!

Đối với tôi, con đường bán mình cho giặc của chế độ Hà Nội đã khởi sự từ ngày ấy. Và ngày ấy cũng là cái mốc đánh dấu sựchuyển biến chất lượng này: từ người công an nhân dân, công an đã trở thành kẻ quay lưng lại với nhân dân.

Ba thập kỉ đã qua, những kẻ quay lưng lại với nhân dân đã trượt không ngừng trên con dốc, để trởthành kẻ thù của nhân dân.
Bây giờ, gương mặt nào là gương mặt đích thực của công an? Người hùng bảo vệ dân hay đám chó giữ nhà cắn cổ dân để bảo vệông chủ của nó?

Gần đây nhất, hãy nhìn hình ảnh anh Nguyễn Ngọc Quang, một giáo dân ở Định Quán, tỉnh Đồng Nai vì tham gia đấu tranh cho dân chủ mà bị công an Đà Lạt ba lần tổ chức tai nạn xe cộ để kẹp suýt chết.

Tôi tự hỏi, có lúc nào những người công an này tự vấn lương tâm? Tại sao họ không dùng sức lực, dùng khả năng hung bạo mà họ sẵn có để giết những tên giặc Tầu, lũ dã nhân tàn sát những người dân đánh cá Thanh Hoá?

Nếu là những người mà nghề nghiệp đặt trên bạo lực, bản năng hiếu chiến mạnh mẽ, tại sao họkhông dùng khả năng đó để tiêu diệt ngoại xâm mà lại đi đàn áp những sinh viên yêu nước biểu tình đòi Trường Sa, Hoàng Sa trước sứ quán Tầu? Tại sao? Vì họ thiếu trí khôn hay vì họ là những kẻ mù loà, óc não bị khô cứng trong một cuộc sống mà ngoài việc tuân theo mệnh lệnh cấp trên không còn khả năng nghĩ đến điều gì khác ?

Vì chưa từng là công an, nên tôi dành những câu hỏi ấy cho họ trả lời. Tôi chỉ nêu lên nhận xét thứhai, nhận xét khi tôi nhìn tấm ảnh đoàn biểu tình đòi mạng người xảy ra tại thị xã Bắc Giang ngày 25 tháng 7 năm nay.

Nhiều người biết rằng, ngày 23 tháng 7, hai công an huyện Tân Yên tỉnh Bắc Giang đã đánh chết anh Nguyễn Văn Khương, 21 tuổi, quê quán tại huyện Việt Yên vì tội danh không đội mũ bảo hiểm. Ngày 25 tháng 7, gia đình anh Khương đã chở xác chàng trai này lên thị xã Bắc Giang đòi đền mạng. Dân chúng xông lênủng hộ gia đình nạn nhân, con sốlên đến hàng ngàn người, làm thành một cuộc biểu tình rầm rộchưa từng có trong lịch sử tỉnh Bắc Giang, mà theo bài phỏng vấn, các cụ già đã nói rằng còn đông hơn ngày theo Việt Minh cướp chính quyền năm Ất dậu.

Có lẽ, con tính của họ cũng đơn giản thôi. Không phải công an nào cũng phú quý vinh hoa nhưông nghị Nguyễn Văn Hưởng. Đa phần những người lính quèn chỉ đủ sức nuôi một vợ thôi mà để nuôi cô vợ này với hai, ba đứa con kèm theo cuộc sống của họcũng không phải là “thiên đường nơi hạ giới”. Nếu máu đổ ra mà chỉ để bảo đảm cuộc sống ấy thì đó là một cuộc đổi chác ngu xuẩn. Thêm nữa, lớp lính bây giờtương đối trẻ, họ biết chữ nên không hoàn toàn bị bưng bít thông tin, họ hiểu được số phận của đám công an ra sao khi các cuộc cách mạng dân chủ xảy ra ởNga, ở Tiệp, ở Hung, ở Đức, và ở Ukraina mới rồi.

Thêm nữa, dù hổ thẹn hay cố tình bưng bít lương tâm, nơi thầm kín nhất của con tim, họ cũng hiểu rằng chết vì một lý tưởng cao cảthì đó là cái chết xứng đáng không làm hổ thẹn cho con cháu, chết chỉ vì miếng cơm thì đó là cái chết của con chó gác sân mà khi dân chúng nổi lên, họ sẽ lấy bắp cầy phang vỡ sọ hoặc dùng câu liêm cắt cổ.
Khi lòng dũng cảm và tinh thần hào hiệp không còn nữa, cái còn lại là sự tính toán vị kỉ của mỗicon người. Sự vị kỉ này cũng có mặt tốt của nó, nó là rào cản đểchủ nghĩa cuồng tín không thểđặt chân vào mảnh sân của mỗi căn nhà.

Một người công an, nếu chưa mất toàn bộ sự sáng suốt, ắt phải biết tính toán họ được bao nhiêu và mất bao nhiêu, liệu số lương bổng họ được có trang trải nổi phần tiêu phí cho đám tang của họ và nuôi nổi cô vợ với lũ con còn lại, hay sự hy sinh của họ chỉđể làm nặng thêm túi tiền các quan lớn, khiến các quan thêm rửng mỡ để đi hiếp trẻ con (nhưông chủ tịch kiêm phó bí thư tỉnh Hà Giang tên Nguyễn Trường Tộvà các ông khác chưa bị lộ mặt), hay máu họ đổ xuống chỉ để đổi lấy các hộp kem đắt tiền nhằm bổdưỡng làn da mịn màng cho các mỹ nhân của quan lớn (như đám mèo cái đang vờn quanh rốn ông nghị Nguyễn Văn Hưởng)? Vân vân và vân vân. . .

Sự tính toán luôn có lợi cho con người. Bởi thánh nhân thường hiếm mà kẻ trục lợi thường nhiều nên không thể đòi hỏi tất cả mọi người đều xả thân vì đất nước. Tuy nhiên, nếu không là thánh nhân thì họ cũng là dân Việt. Là dân Việt, họ phải hiểu rằng truyền thống chống Tầu là dòng máu sôi sục liên tục chảy trong tim dân tộc này. Bất cứ kẻ bán nước nào, sớm hay muộn, trước hay sau cũng sẽ nằm trước mũi súng của nhân dân.

Dân Việt!
Ai là dân Việt?

Phải chăng đó là tộc người duy nhất trong hàng trăm tộc Việt (Bách Việt) xưa kia sống ở phía nam sông Dương Tử còn giữ lại được bản sắc mà chưa bị đồng hoá như chín mươi chín tộc Việt kia?
Phải chăng vì sự cứng đầu này mà đất Việt luôn luôn là con mồi trong tâm thức Bắc triều?

Năm nay đã là năm 2010, thế kỉ21, Trung Quốc không còn sống dưới vương triều họ Mao, không còn phải đổi xác người thân cho nhau để chén thịt. Kinh tế phát triển, các phương tiện kĩ thuật phát triển, trình độ văn hoá được nâng cấp, sách báo lan tràn trong các đô thị, không thể cho rằng dân Trung Quốc hoàn toàn bị dắt mũi bởi họ ngu dốt, bởi thiếu thông tin, bởi sợ hãi nhà cầm quyền, ngược lại, họ đang dương dương tự đắc vì là dân của Cường quốc số 2 trên thế giới. Vậy thì, cái “hòn xôi Việt Nam chưa nuốt được” kia không chỉlàm ngáng họng đám cầm quyền mà cũng còn làm ngứa ngáy cổhọng vô số dân đen phương Bắc, một mặc cảm có mẫu số chung.

Liệu nhà cầm quyền phương Bắc có thể ngang ngược làm những điều ấy chăng nếu như chính quyền Hà Nội còn là một chính quyền độc lập mà không tựnguyện biến mình thành đám gia nô cho vương triều Đại Hán?

Tuy nhiên, Mỵ Châu xưa là một người đàn bà xinh đẹp nhưng ngu dốt, kẻ luỵ tình nông nổi nên tội bán nước của cô ta còn được người đời khoan dung. Tại đền thờ Cổ Loa có hai tượng đá, tượng đá ngoài sân là biểu tượng Mỵ Châu nằm gục mặt xuống đất mà bất cứ ai đi qua cũng phải đạp một cái lên lưng và nhổ một bãi nước bọt để trừng phạt “con Mỵ Châu bán nước”. Còn tượng đá trong đền, tựa như một người đàn bà cụt cổ phủ vải đỏ thì lại được hương khói do lòng đồng cảm với “Mỵ Châu khờ dại và lụy tình”.

Ngoài các lý do về nhu cầu bờbiển với các hải cảng, nhu cầu khoáng sản, còn một nhu cầu thầm kín nữa mà quan lại phương Bắc không nói ra, đó là nhu cầu đồng hoá nốt cái phần còn lại của Bách Việt.

Niềm kiêu hãnh Đại quốc là ở đó. Mối bực mình của Đại quốc cũng là ở đó. Một khi họ đã thâu tóm, đã chiếm lĩnh, đã áp đặt nền văn hoá và chữ Hán lên chín mươi chín tộc Việt kia, lẽ nào còn cái tộc cuối cùng họ phải chịu thua?Ở thế thượng phong mà mấy ngàn năm nay chưa nuốt trọn hòn xôi Việt Nam, mảnh đất cỏn con, dường như là một “vết thương lòng, một sự tự ái” mà vua chúa Trung Hoa không chịu được.

Cách đây vài năm, ai đó từng nói với tôi rằng “Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch là địch thủ, nhưng về chính sách đối với Việt Nam thì bọn họ sẽ ngồi cùng một bàn”.
Đó là một nhận định sáng suốt.

Năm trước, ông bộ trưởng bộ quốc phòng Trung Quốc tiến hành cuộc điều tra dư luận xem bao nhiêu phần trăm dân chúngủng hộ xâm chiếm Việt Nam. Theo công bố của ông ta thì con số này lên đến trên 90%. Cứ cho rằng Trung Quốc là một nước cộng sản nên dân chúng còn sợ hãi, họ phải tuân theo thượng cấp nên có thể trừ đi 20 phần trăm, phần còn lại vẫn là trên 70 phần trăm. Và điều này là sự thật không ai có thể chối bỏ.

Vì lý do nào mà bộ trưởng bộquốc phòng Trung Quốc làm cuộc điều tra này? Đó là một trò chơi ngẫu nhiên hay là sự thăm dò có chủ định?

Vì lý do nào mà trên các site internet Trung Quốc tung ra hàng loạt bài chửi bởi, nhục mạ “lũ chó Việt Nam, phải đánh bọn chúng. Lũ chó Việt Nam, lần này chúng ta sẽ thanh toán lịch sử”, và công bố một cách chi tiết chương trình thôn tính Việt Nam trong ba mươi mốt ngày, phần còn lại của bán đảo được quy định là một tuần, tóm lại là chương trình con hổ Trung Quốc nuốt trọn con dê Đông Dương?

Tôi dành những câu hỏi ấy cho bạn đọc trả lời.
Tôi chỉ xin nhắc họ rằng, chúng ta là tộc người cuối cùng sống sót mà không bị đồng hoá thành người Hán. Tổ tiên chúng ta đã đấu tranh không mệt mỏi đểchống lại sự áp đặt của Bắc triều, bởi họ đã nhìn thấy sự đánh mất bản diện, sự lụi tàn của 99 tộc Việt kia.

Để tồn tại và được là chính mình, tổ tiên ta vừa chống chọi vừa lùi xuống phương Nam. Lịch sử của dân tộc Việt tóm gọn trong câu này: “Nam tiến”!
Nam tiến, nam tiến và nam tiến!

Cuộc Nam tiến thứ nhất khởi sự dưới triều Lê, từ năm 1428 đến năm 1527. Kể từ đây, cuộc khai khẩn và chinh phạt tiếp tục không ngưng nghỉ. Từ Thăng Long các đoàn quân xưa vượt qua đèo Ngang, sau lưng họ là những đoàn nông dân và thợ thủ công vào phá rừng, bạt núi, kiến tạo ruộng đồng và lập làng xây ấp. Rồi tiến đến châu Ô, châu Rí. Rồi, từ đèo Ngang vượt qua đèo Hải Vân là chặng đường thứ hai. Cứ thế mà hành trình này tiếp tục cho đến mũi Cà Mau.

Nam tiến, đó là sự nghiệp dựng nước của tổ tiên ta.

Bây giờ, chúng ta không còn cơ hội để tiếp tục sự nghiệp của họ. Chúng ta không thể Nam tiến. Trước mặt chúng ta đã là biển. Chúng ta tiến đi đâu?
Người Việt chỉ còn cách tồn tại cuối cùng là giữ lấy đất đai, đất đai ấy là xương máu của cha ông ngàn đời tích tụ lại, đất đai ấy là nơi cắt rốn chôn rau nhưng cũng là thành luỹ mà họ có thể nương tựa vào để duy trì cuộc sống cho mình và cho các thế hệ mai sau.

Để giữ được non sông, để có thểlà người Việt mà không trở thành đám thiểu số khiếp nhược của một vương quốc khác, chúng ta không thể tiếp tục dung dưỡng một chính quyền bán nước, mộtchính quyền đã ngang nhiên cắt đất, cắt biển cống cho phương Bắc, đã nhục nhã biến ngọn cờThăng Long ngàn năm thành một mảnh vải vụn xén ra từ cái váy hồng Bắc Kinh. Chúng ta không thể bảo vệ được Tổ quốc nếu tiếp tục nuôi giữa lòng dân tộc mình một con rắn độc, cũng như Vua An Dương Vương xưa đánh mất non sông vì trót đẻ ra và trót yêu thương đứa con gái phản tặc có tên là Mỵ Châu.

Với tất cả các hành vi nhục nhã mà họ đã làm, chế độ Hà Nội giờ đây đã chính thức trở thành một thứ Mỵ Châu.

Dân Việt vốn không cuồng tín, họ phân biệt rõ ràng mọi sự, bên kia chữ lý còn đọng chữ tình.

Nhưng nàng Mỵ Châu ngây thơ, khờ dại đã chết từ mấy ngàn năm trước, còn chính quyền Mỵ Châu bây giờ không một chút khờ dại mà cũng chẳng luỵ tình ai, nó chỉ luỵ cái túi tiền của chính nó. Mọi tính toán của nó chỉ nhằm tu tạo, xây đắp quyền lợi bản thân, cũng như con thú chỉ có một đam mê duy nhất là liếm cho mượt bộlông của chính nó mà thôi.

Mỵ Châu ngày nay là một con đĩ già trơ trẽn, trần truồng nằm dạng háng sẵn cho phương Bắc.

Người dân Việt phải chém cụt đầu con đĩ ấy, trước khi nó kịp trao hết nỏ thần vào tay giặc nếu chúng ta không muốn lặp lại số phận bi thảm của An Dương Vương.

Dân tộc Việt không thể làm được điều ấy, nếu quân đội khôngđứng lên cùng với họ.

Quân đội, những người lính của nhân dân, các anh còn ngủ đến bao giờ?


DƯƠNG THU HƯƠNG

Tổng Thống Nga Vladimir Putin:
Kẻ nào tin những gì Cộng Sản nói, là không có cái đầu.
Kẻ nào làm theo lời của Cộng Sản, là không có trái tim.

Tổng Thống Nga Boris Yeltsin:
Cộng Sản không thể nào sửa chửa, mà cần phải đào thải nó.

Bí Thư Đảng Cộng Sản Nam Tư Milovan Djilas:
20 tuổi mà không theo Cộng Sản, là không có trái tim,
40 tuổi mà không từ bỏ Cộng Sản, là không có cái đầu.

Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Liên xô Mr. Mikhail Gorbachev:
Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng Cộng Sản.
Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng: Đảng Cộng Sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá.

Các vụ thông tin nội gián làm xáo trộn thị trường tài chính Mỹ

Thị trường tài chính Mỹ đang bị chấn động sau các vụ điều tra của Cục Điều tra Liên bang FBI và Ủy ban Kiểm soát Giao dịch Chứng khoán SEC. Một số doanh Mỹ bị truy tố vì tội thông tin nội gián. « Thông tin nội gián » hay “Giao dịch qua nội tuyến” là gì và tác động của các cuộc điều tra đang được tiến hành đối với Wall Street ra sao ? Phân tích của chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa tại Hoa Kỳ.

Thanh Hà: Xin chào anh Nguyễn Xuân Nghĩa. Việc cơ quan FBI vừa tống giam một doanh gia Mỹ gốc Đài Loan đã tiếp nối hàng loạt điều tra nhắm vào nhiều quỹ đầu tư rất lớn của Hoa Kỳ được các thị trường tài chính quốc tế theo dõi rất sát. Giới đầu tư cho rằng vụ này mở đầu cho đợt cuộc bắt bớ được coi là rộng lớn nhấ cho đến nay, liên hệ đến tội thông tin nội gián. Đầu tiên thì bối cảnh của vụ này là gì?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Về bối cảnh thì đây là hồi kết của một chuỗi điều tra kéo dài từ ba năm nay và nhắm vào các quỹ đầu tư gọi là “đối xung” hay “hedge fund”, tiếng Pháp gọi là “fond d’investissement alternatif”. Nhưng hồi kết này lại có thể mở ra một hồ sơ pháp lý là định nghĩa về tội danh “giao dịch qua nội tuyến”, insider trading hay délit d’initié. Chuyện này rất rắc rối.

Nói cho gọn thì nhà chức trách Hoa Kỳ gồm có Ủy ban Kiểm soát Chứng khoán, gọi tắt là SEC ( Securities & Exchanges Commission ), đã nhìn thấy nhiều mờ ám trong việc mua bán chứng khoán, nên đã yêu cầu cơ quan FBI điều tra. Sau nhiều năm điều tra, theo dõi và tống trát tòa cho một số cơ sở đầu tư, FBI bắt đầu tung mẻ lưới truy tố nghi can như ông Raj Rajaratnam, đứng đầu tập đoàn Galleon Group, một quỹ đầu tư đối xung thuộc vào hạng lớn nhất thế giới tại New York, trước khi bị đóng cửa cách đây đúng một năm. Tuần qua, đến lượt ông Don Ching Trang Chu, gốc Đài Loan, bị tạm giam. Sau đợt này, nhiều nhân vật khác có khi cũng sa lưới trong một vụ tảo thanh mà người ta cho là rộng lớn nhất lịch sử Hoa Kỳ về tội giao dịch nội tuyến.

Thanh Hà: Thưa anh, vì sao chuyện ấy lại xảy ra lúc này, mà không sớm hơn hay trễ hơn?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Thật ra, nếu theo dõi kỹ thì ta không nên ngạc nhiên vì đoán là sẽ xảy ra. Cái trái đã chín thì đến lúc bị rung sẽ phải rụng! Thứ nhất, từ hơn hai năm nay, người ta nghiệm thấy một việc bất thường là giá cổ phiếu nhiều công ty bỗng tăng vọt trước khi có tin tức về một nghiệp vụ sát nhập hoặc thôn tính công ty. Tức là từ bên trong, ai đó đã xì ra những tin tức riêng mà thị trường bên ngoài không biết.

Về nhân quả thì qua các nghiệp vụ ấy, nhiều quỹ đầu tư loại đối xung hay hỗ tư – mutual fund – có lời lớn một cách đáng ngờ. Trước đây, cơ quan SEC bị chỉ trích là không kiểm soát chặt chẽ nên mới để xảy ra khủng hoảng tài chính năm 2008 nên họ phải thanh tra tích cực hơn. Vì vậy, thể nào họ cũng truy ra nguyên nhân và thủ phạm.

Huống hồ, và đây là chuyện rung cây, chính quyền hiện hành nghi ngờ lề thói làm ăn nhiều khi bất chính của các doanh nghiệp tài chính Wall Street nên đốc thúc cơ quan FBI phải làm cho ra lẽ. Vì vậy, SEC và FBI mới ráo riết điều tra và nay bắt đầu tung lưới bắt.

Thanh Hà: Thế còn “giao dịch nội tuyến” là gì?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Có người gọi đó là “giao dịch nội gián”, tôi nghĩ là chữ “nội tuyến” có lẽ chuẩn xác hơn vì chữ “gián” có thể gây hiểu lầm là “gián điệp” hay “ly gián”, “phản gián”.

Giao dịch nội tuyến là khi một số người ở “tuyến trong” nắm giữ các thông tin bí mật mà bên ngoài không biết trước – thí dụ như biên bản hay kết quả phiên họp của Hội đồng Quản trị – và dùng các thông tin hạn chế ấy để mua bán chứng phiếu, là chứng khoán hay trái phiếu, hoặc bán loại tin đó cho người khác nhằm trục lợi. Theo luật lệ của Ủy ban SEC Hoa Kỳ thì chỉ nội cái việc nắm giữ loại thông tin không công bố này cũng có thể đã là một vi phạm.

Tôi lấy một thí dụ cũng nóng bỏng tại Mỹ là trong hai năm 2008-2009, có ít nhất 72 viên chức Thượng và Hạ viện Mỹ đã mua bán cổ phiếu của các công ty mà thượng cấp của họ là các nghị sĩ dân biểu đang có nhiệm vụ thanh tra. Khi đó, các viên chức này có thể nắm giữ loại tin bên trong mà công chúng bên ngoài không biết. Nếu họ dùng tin tức đó để mua bán cổ phiếu thì có thể đã phạm tội “giao dịch nội tuyến”.

Thông thường hơn, tội này liên hệ đến những người làm việc bên trong doanh nghiệp, theo định nghĩa của Mỹ là viên chức điều hành và những ai làm chủ hơn 10% số vốn pháp định của công ty, và có thể tiết lộ chuyện nội bộ ra ngoài cho ai khác – từ thân nhân tới bằng hữu – để kiếm lời. Và hành động ấy bị coi là phạm tội hình.

Thanh Hà: Nhưng trong lĩnh vực truyền thông, một cơ quan thông tin chuyên đề về kinh tế tài chính cũng có chức năng đi tìm tin tức then chốt để biết và thông báo ra ngoài chứ? Đồng thời, trên doanh trường cũng có nhiều công ty nghiên cứu về đầu tư để cố vấn cho thân chủ là nên mua cổ phiếu này hoặc bán trái phiếu kia thì có lời hoặc khỏi lỗ. Trong những trường hợp đó, ưu thế của các cơ sở thông tin hay tư vấn là phải biết được những điều mà đa số bên ngoài không biết. Thế thì liệu họ có can tội giao dịch nội tuyến không?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Câu hỏi của cô là vô cùng chí lý! Thực tế là nó đang gây tranh luận trên doanh trường và chính trường Hoa Kỳ.

Trên doanh trường, cùng với sự bùng phát công nghệ tin học, từ mươi năm nay Hoa Kỳ có một loại hình kinh doanh mới mà họ gọi là “Mạng lưới Chuyên gia” hay Expert Network. Đó là các công ty nghiên cứu rất chuyên sâu về nhiều lĩnh vực, kể cả đầu tư và chế biến. Giới đầu tư phải mua tin tức hay kết quả phân tích của mạng lưới chuyên gia này và thực tế là khách hàng lớn nhất của dịch vụ gọi là “mạng lưới” đó.

Thế thì các chuyên gia mà đi đào tin về để nghiên cứu và khuyến nghị cho khách hàng có thể là kẻ giao dịch nội tuyến hay không? Phân tích một bảng kết toán sổ sách có thể là nghiên cứu, nhưng nếu moi tin của một “chuyên gia” có khi là nhân viên hay khách hàng của doanh nghiệp đang được chiếu cố, thì đấy là thông tin của nội tuyến.

Chuyện này hấp dẫn vì cái ông Trang Chu vừa bị bắt tuần qua là nhân viên của Primary Global Research, một công ty thuộc loại “mạng lưới chuyên gia” đang bị điều tra. Tội danh của ông ta là “có âm mưu gia tăng giá trị của công ty mình trong dịch vụ “mạng lưới chuyên gia”, với những tin tức thuộc loại nội tuyến được cung cấp cho khách hàng là các quỹ đầu tư đối xung”.

Bây giờ, khi nhà chức trách đã ghim một nghi can, thì họ có quyền gây sức ép và mặc cả cho nghi can này được nhẹ tội, bằng cách tố giác hoặc giúp viên chức an ninh gài bẫy nghi can khác để lấy chứng cớ. Vì vậy, chuyện này sẽ còn lây lan ra nhiều doanh nghiệp và nhân vật then chốt.

Nhưng cũng chính vì vậy mà nhiều chuyên gia kinh tế và luật pháp đang nêu ngược vấn đề là không nên duy trì tội “giao dịch nội tuyến”, vì càng hạn chế thông tin và không giúp thị trường vận hành một cách bình hòa. Chúng ta chưa rõ là cuộc tranh luận về pháp lý và đạo tắc ấy sẽ ngã ngũ ra sao, nhưng rõ ràng là các quỹ đầu tư đối xung đang nằm trên lửa.

Thanh Hà: Xin cám ơn anh Nguyễn Xuân Nghĩa.


Thanh Hà [Nguồn RFI]

Nanh vuốt con quái vật đang lộ dần

Chủ tịch Trung quốc Hồ Cẩm Đào là nhân vật thế lực nhứt hành tinh, Tổng thống Mỹ Barak Obama xếp hàng thứ nhì. (theo báo Mỹ Forbes)

Đã có người từng ví Tàu là một con quái vật, cả thế giới xúm nhau vổ béo, mặc dầu ai cũng biết nó có thể trở chứng bất cứ lúc nào.

Thật vậy, cách đây mấy thế kỷ (năm 1816), nhân đọc một tài liệu về chuyến du hành Trung hoa của vị Đại sứ Anh đầu tiên ở bên Tàu (Lord Macartney), Hoàng đế Nả Phá Luân đệ nhứt (1769-1821) của Pháp đã tiên liệu: «Một khi Tàu thức dậy, thế giới sẽ rung chuyển.» (Lorsque la Chine s’éveillera, le monde tremblera), so với thực trạng ngày nay, phải chăng đó là một lời tiên tri?

Cách đây non 40 năm, nhà học giả, vừa là chính khách nổi tiếng của Pháp -ông Alain Peyrefitte (1925-1999) -đã lấy lời tiên đoán này làm nhan đề cho một quyển sách dày trên 450 trang (nxb Fayard 1974), người đọc có thể coi đây như một cảnh báo về «họa da vàng».

Từ đó đến nay, không biết bao nhiêu nước bọt và giấy mực bàn về vấn đề này, có người cho hãy còn lâu Tàu mới bặt kịp Tây phương, có người tin tưởng là Mỹ đã có sẵn bửu bối để trừ khử con quái vật một khi nó trở chứng, cũng có lập luận cho rằng Tàu sẽ tự suy vong vì không thể vượt qua bao nổi khó khăn nội bộ (bất công xã hội bùng nổ, suy yếu vì nạn tam phân ngũ liệt như thời Đông châu, Tam quốc).

Nói gì thì nói, thế lực của Tàu vẫn không ngừng lớn mạnh trong khi Tây phương thì đang hụt hơi, cứ tiếp tục đà này thì liệu thế giới có giữ nổi thế nguyên trạng hiện nay?


President Obama greets Chinese President Hu Jintao during the Nuclear Security Summit April 12, 2010.


Vậy Tàu không ngừng lớn mạnh như thế nào? Tây phương đang hụt hơi ra sao?

Do vũ khí thô sơ, thua các trận chiến tranh nha phiến (khởi từ 1839), Tàu buộc lòng chấp nhận nhiều thỏa hiệp bất công (bồi thường chiến phí, mở cửa cho Tây phương tự do giao thương, mất một số vùng đất (nhượng địa Hongkong, Macao), kế tiếp là gánh chịu nhiều thiệt hại nặng nề trong cuộc chiến Trung -Nhựt (1937-45), sau cùng lại phải sống dưới chế độ khắc nghiệt giáo điều cộng sản (từ 1949) do Mao Trạch Đông lãnh đạo.

Thời đó dân Tàu rất nghèo, nạn đói gần như triền miên, có thể nói nước Tàu chỉ mới bắt đầu khởi sắc từ cuối thập niên 1970, khi ông Đặng Tiểu Bình (1904-1997) trở lại nắm quyền, với đầu óc thực tế (câu để đời: «không cần phân biệt mèo trắng hay mèo đen, miễn bắt được chuột»), ông đề xướng chủ trương cải cách nước Tàu, mở cửa giao thương với Tây phương.

Thử xem lại tiến độ phát tiển của Tàu trong vòng 30 năm qua:

19 81 19 90 20 00 20 05
Hạng Nước TSLQG (*) Nước TSLQG (*) Nước TSLQG (*) Nước TSLQG (*)
1 Hoa Kỳ 2.906 Hoa Kỳ 5.330 Hoa Kỳ 9.448 Hoa Kỳ 12.359
2 Liên Xô 1.255 Nhựt 2.891 Nhựt 4.682 Nhựt 4.657
3 Nhựt 1.142 Đức 1.498 Đức 1.862 Đức 2.796
4 Tây Đức 683 Pháp 1.191 Anh 1.432 Anh 2.280
5 Pháp 569 Ý 1.089 Pháp 1.275 Tàu 2.254
6 Anh 498 Anh 987 Ý 1.053 Pháp 2.153
7 Ý 350 Gia Nả Đại 578 Tàu 1.052 Ý 1.762
8 Gia Nả Đại 284 Tây Ban Nha 491 Ba Tây 804 Gia Nả Đại 1.113
9 Tàu 264 Tàu 416 Gia Nả Đại 660 Tây Ban Nha 1.110

(*) Tổng sản lượng quốc gia, theo tiếng Pháp là PNB global (Produit national brut global, tiếng Anh: GDP (Gross domestic product), đơn vị là tỷ mỹ kim

Đối chiếu tiến độ phát triển giữa HK và Tàu:

19 81 19 90 20 00 20 05 20 10
Nước GDP Hạng GDP Hạng GDP Hạng GDP Hạng GDP Hạng
Hoa Kỳ 2.906 1 5.330 1 9.448 1 12.359 1 14.260 (a) 1
Tàu 264 9 416 9 1.052 7 2.254 5 4.900 (a) 2
Sai biệt HK/Tàu 11 lần 13 lần 9 lần 5, 5 lần 3 lần

(a) Tổng sản lượng nội địa (GDP) ghi nhận đến cuối tháng 10-2010 (theo tạp chí Forbes), Tàu vượt hơn Nhựt, từ đó có tiên đoán là Tàu sắp sửa qua mặt Nhựt trong năm 2010, vượt lên hàng thứ nhì sau Hoa Kỳ, nhứt là đang sở hữu một trữ lượng ngoại tệ khổng lồ (2.700 tỷ mỹ kim), có người cho rằng G20 rồi sẽ chỉ còn là G2, ám chỉ là chỉ còn Mỹ và Tàu họp nhau tung hoành trên bàn cờ thế giới.

Trước đây, chắc không mấy ai ngờ tới, trong vòng không đầy 30 năm, từ một nước nghèo nàn lạc hậu, Tàu thu ngắn khoảng cách vời HK, qua mặt các cường quốc khác vươn lên ngôi vị số hai hiện nay, với đà này, chắc cũng khó có ai hình dung cục diện thế giới trong vòng 30 năm tới?

Trong khi ngân sách quốc gia nhiều nước phát triển vẫn không ngừng thâm thủng, đây là món nợ sớm muộn gì cũng phải trả, càng kéo dài càng thiệt hại cho các thế hệ kế tiếp. Tiêu biểu cho tình trạng này là Hoa Kỳ, một siêu cường nhưng lại mang công nợ nhiều nhứt thế giới, chủ nợ quan trọng nhứt lại là Tàu ( 868 tỷ mỹ kim).

Theo đồng hồ công nợ đặt tại khu Manhattan -Nửu ước HK (http://www.brillig.com/debt_clock/), xin trích y vào ngày 23-11-2010:

The Current Outstanding Public Debt of the United States is:
$13,789,699,194,529.33
Last Updated: Tuesday, November 23rd, 2010 (updated daily)
Every man, woman and child in the United States currently owes $45,387 for their share of the U.S. public debt

Public Debt: $9,205,331,929,626.46
Intragovernmental Holdings: $4,584,367,264,902.87
Total U.S. National Debt: $13,789,699,194,529.33

Số nợ này gần bằng với GDP HK, gấp 2,8 lần GDP Tàu, 230 lần GPD Việt Nam.

Tính bổ đồng mỗi gia đình người HK (trung bình 4 người) đang gánh chịu số nợ trên 180 ngàn mỹ kim.

Có người nghĩ là để giảm nợ, Mỹ chỉ cần phá giá đồng mỹ kim, số nợ tức thì sẽ giảm theo với tỷ lệ phá giá, chuyện đời không đơn giản như thế, vì ngoài Tàu, HK còn nợ nhiều nước đồng minh như Nhựt (836 tỷ), Anh (448 tỷ), … và tệ hại nhứt là sự phá giá sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chính đời sống nhân dân HK (vật giá gia tăng, tiền tiết kiệm bổng chốc mất theo tỷ lệ lạm phát), muốn bớt nợ cần giảm bớt nhập cảng (hiện các cân thương mại chênh lệch với Tàu hàng tháng khoản 24 tỷ), việc tương đối dễ dàng như thế còn không làm được (do sự chống đối của người tiêu thụ và cả giới tài phiệt -khoảng 50 ngàn xí nghiệp HK đang ăn nên làm ra tại Trung quốc) thì huống hồ gì là chuyện phá giá.

Tuy là thị trường tiêu thụ hàng Tàu lớn nhứt, nhưng cũng đừng vội tưởng Tàu sẽ suy sụp nếu bị HK “ngăn sông cấm chợ”, đừng quên sức tiêu thụ hàng tỷ người cũng như khối nhân công rẻ, Tàu là một môi trường tiêu thụ và đầu tư hấp dẫn, cả thế giới đang tranh nhau khai thác (xây dựng nhiều cơ sở sản xuất), hơn nữa, mọi quyết định của HK và Tây phương đều có thể gặp phản ứng trả đủa, theo tờ Financial Times thì hãng sản xuất xe hơi lớn nhứt của Mỹ General Motors sắp phá sản gượng dậy được là nhờ xuất cảng ồ ạt sang Tàu (1).

Thật không dễ dàng gì khi lấy một quyết định lợi bất cập hại như vậy!

Về phía HK, do chênh lệch cán cân thương mại kéo dài, khối lượng thâm thủng ngân sách ngày càng lớn, nợ nầng chồng chất, HK phải buộc lòng từ bỏ nhiều dự án đại qui mô về chinh phục không gian, giảm thiểu các ngân khoản dành cho nhiều chương trình nghiên cứu (rất cần thiết cho công cuộc phát triển trong tương lai).

Còn Tàu, nhờ “vai mang bị bạc kè kè, nói quấy nói quá chúng nghe rầm rầm”, họ đang lấn đất giành dân với Tây phương, đang đảo ngược thế thượng phong ở Phi châu (Nam Phi, Congo, Ghana, Kenya, Mozambique, Zambie, …) và đang lấn sâu vào “sân sau của Hoa kỳ” như Ba Tây (hiện đối tác thương mại hàng đầu trên HK), Bolivie, Ecuador, … hợp tác khai thác dầu hỏa ở Vénézuela. Ngay cả một số quốc gia Tây phương đang chới với trong cơn khủng hoảng kinh tế (Hy Lạp, Bồ Đào Nha) cũng mong chờ bàn tay tế độ của Tàu.

Kỳ thật là HK không còn đủ sức mạnh để áp đặt mọi chuyện trên thế giới theo ý mình (như đơn phương đánh Irak bất chấp Liên hiệp quốc, quyết định cấm vận đơn phương, bắt buộc các nước khác phải nghe theo nếu không muốn bị HK trừng phạt như luật Amato), trái lại mọi quyết định trừng phạt quốc tế nào (theo mong muốn của HK) cũng cần được sự hưởng ứng của Tàu, nếu không thì chỉ tổ giúp Tàu có cơ hội tạo thêm vây cánh (trường hợp Iran, Miến Điện, Bắc Hàn, …), làm như vậy thật chẳng khác nào dọn cổ sẵn cho Tàu xơi.

Cũng nhờ phương tiện dồi dào, Tàu đã mua nhiều cơ sở sản xuất nổi tiếng của Tây phương như Lenovo Group mua IBM, nếu Quốc hội Mỹ không ngăn chận, CNOOC (China National Offshore Oil Corporation) đã mua hãng dầu Unocal (18,5 tỷ mỹ kim); muốn bán các loại thiết bị máy móc, các cơ sở sản xuất Tây phương phải chuyển giao cả kỹ thuật (2), đây là dịp Tàu thụ đắc được các kiến thức khoa học hiện đại, nên nhớ ngoài tài bắt chước, dân Tàu còn nổi tiếng cần cù và thông minh, họ đã từng có những phát minh nổi tiếng (giấy, kỹ thuật ấn loát, thuốc súng, địa bàn, …), những nhà tư tưởng vĩ đại (Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử, …), với đà này, chẳng bao lâu nữa Tàu sẽ bắt kịp và qua mặt các cường quốc Tây phương, giống như sau thế chiến thứ hai, hàng hóa Nhựt rẻ như bèo, nhưng bây giờ hàng “made in Japan” là số một.

Thật vậy, nhiều chỉ dấu cho thấy Tàu đang cạnh tranh với Tây phương trong một số lãnh vực, như xe lửa cao tốc (xây dựng ở Thổ Nhỉ Kỳ, Vénézuela, có thể sắp tới ở Arabie Saoudite, kể cả HK –đã ký tiền thoả hiệp với tiểu bang California), sắp sản xuất máy bay hàng không dân dụng cạnh tranh với Boeing, Airbus (3).

Thiển nghĩ đó cũng là điều tự nhiên, có tiền mua tiên cũng được mà, trong khi Liên Âu chưa thực hiện được dự án chinh phục không gian riêng (phải hợp tác với Hoa Kỳ, Nga) thì Tàu đã có những bước nhảy vọt trong lãnh vực này (xây dựng các trung tâm nguyên tử, phóng phi thuyền đưa người lên không gian, hỏa tiển triệt hạ vệ tinh, đang thực thị dự án thám hiểm mặt trăng, chuẩn bị đưa người lên viếng chị Hằng vào năm 2020), tin mới nhứt là Tàu vừa chế tạo một máy siêu điện toán mạnh nhứt hành tinh, hơn hẳn máy mạnh nhứt hiện nay của HK, vào cuối tháng 10 vừa qua, Tàu đã đoạt ngôi vị số 1 của HK với máy điện toán Tianhe -1A, có khả năng 2, 507 pétaflops/giây, tương đương 2,5 triệu tỷ bài toán trong một giây trong khi máy mạnh nhứt của HK hiện nay là 1,75 pétaflops/giây (4), cũng chính HK đã nghi ngờ Tàu dính líu trong một số vụ gây xáo trộn hệ thống thông tin toàn cầu (5).

Vị thế bá chủ của đồng mỹ kim cũng đang bị rung rinh, Tàu đã yêu cầu xét lại ưu thế này, đề nghị nghiên cứu một hệ thống bản vị giao hoán quốc tế mới thay thế đồng mỹ kim được giải Nobel kinh tế Joseph Stiglitz hậu thuẫn, Chủ tịch Quỹ tiền tệ quốc tế (FMI) D. Strauss Kahn biểu đồng tình, .. dầu chưa thực hiện trong ngày một ngày hai, nhưng đó là điềm tiên báo sự thay đổi.

Nhưng có lẽ điều đáng ngại nhứt trình độ tiến bộ khoa học kỹ thuật trong tương lai, do thiếu phương tiện, nhiều công trình khoa học kỹ thuật của Tây phương bị chựng lại hay đình chỉ thì Tàu lại dành nhiều ngân khoản khổng lồ cho lãnh vực này, thể hiện qua các dự án công trình nghiên cứu, trang bị những phòng thí nghiệm, đào tạo đội ngũ khoa học kỹ thuật, theo Bản tường trình của Unesco về khoa học năm 2010 thì chẳng bao lâu nữa Tàu sẽ vượt qua HK (6).

Cũng có lập luận cho rằng sự bành trướng của Tàu là chuyện “tất đến”, theo Aleksandr Anatolievich Khramchikhin -Phó Giám đốc Viện Phân tích Chính trị và Quân sự, Liên Bang Nga: “chúng ta hoàn toàn không thể hiểu, Trung Quốc sẽ làm thế nào để tránh, không bành trướng ra bên ngoài bằng tất cả các hình thức của nó (kinh tế, chính trị, nhân khẩu, quân sự). Nó hoàn toàn không có sức sống trong các ranh giới hiện nay của mình. Hoặc là nó phải lớn lên gấp bội, hoặc là nó buộc phải nhỏ hơn rất nhiều. Bởi thế, vấn đề không phải là sự xâm lược của Trung Quốc, mà là với nó, bành trướng là kế sách duy nhất để sống sót.

Đó không phải là con ngoáo ộp, mà là hiện thực khách quan đang cắt cứa vào giác quan của ta.

Quả thật, vẫn còn ít người cảm nhận được hiện thực ấy. Nhưng chẳng bao lâu nữa, nó sẽ tới.» (7)

Bây giờ thì nanh vuốt con quái vật đang lộ dần, không che dấu mộng độc chiếm biển Đông, ức hiếp các tiểu quốc, thách thức các đại bang, không biết hư thực ra sao, nhưng thực tế này ứng hợp với những lời phát biểu đầy tính khiêu khích (quyết tâm giải quyết vấn đề HK) của tướng Trì Hạo Điền, nguyên Bộ trưởng quốc phòng Trung quốc.

Nhìn lại chiều dài lịch sử của nhân loại, bao nhiêu nền văn minh rực rỡ đã nối tiếp suy tàn, thậm chí không còn để lại dấu vết, âu cũng đúng theo quy luật thiên nhiên sinh -trưởng -thu –tàn, cái gì lên đến tột đỉnh rồi cũng phải rơi xuống, lịch sử cận đại đã minh chứng, từ Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha vẫy vùng năm châu bốn biển trong thế kỷ 17, 18, kế đến Anh, Pháp làm mưa làm gió trong thế kỷ 19 rồi HK, Liên Xô gần như chia đôi thiên hạ trong thế kỷ 20, sau khi Liên Xô sụp đổ, HK độc chiếm vị trí thống lãnh toàn cầu, có thể nói đỉnh cao là cuộc chiến Irak (ngụy tạo bằng chứng cốt để triệt hạ nhà độc tài mén S. Hussein) năm 2003, đơn phương hành động bất chấp Liên hiệp quốc, đây là một cuộc chiến vô cùng tốn kém, ước tính hao tốn đến 3 ngàn tỷ mỹ kim (8), đây cũng là cuộc chiến làm oen ố hình ảnh của HK trên trường quốc tế.

Giống y chuyện thế nhân thường tình, ai có sức mạnh hơn người thường có khuynh hướng sử dụng cơ bắp hơn là lý lẽ để khuất phục kẻ yếu hơn mình, vô tình đã tạo lắm kẻ thù tiềm ẩn (diện phục tâm bất phục), một khi họ họp nhau lại để chống cường quyền thì “mãnh hổ nan địch quần hồ”, thế lực cũ suy tàn nhường chỗ cho một thế lực mới, khai mở một chu kỳ sinh -trưởng -thu –tàn mới.

Thật đáng suy ngẫm lời của nhà binh pháp nổi tiếng Tôn Tử: “Bách chiến bách thắng, phi thiện chi thiện giả dã, bất chiến nhi khuất nhân chi binh, thiện chi thiện giả dã.” (vị tướng đánh trăm trận trăm thắng, chưa phải là vị tướng giỏi trong các vị tướng giỏi, vị tướng không cần xuất quân mà khuất phục được binh lực đối phương mới thực là vị tướng giỏi trong các vị tướng giỏi). Chính giới trí thức HK cũng hiểu rõ vấn đề này, theo ông Joseph Nye: «Đã qua rồi thời kỳ chỉ biết có diệu võ dương oai, mà phải sử dụng mọi ưu điểm về tư tưởng, văn hóa, chính trị, … để thuyết phục và lôi kéo thế giới, ông gọi đó là “nhu lực” (soft power) khác hẳn với chủ trương “cây gậy và củ cà rốt” (hard power).» (9).

Có thể coi việc một tạp chí nổi tiếng của HK xếp Chủ tịch Trung quốc Hồ Cẩm Đào là nhân vật thế lực nhứt hành tinh như một tiếng chuông cảnh tỉnh, dám nhìn thẳng vào thực tế để ứng phó hữu hiệu ích lợi hơn là tự ru ngủ trên cành nguyệt quế.

Đầu năm 2003, khi HK đang chuẩn bị đánh Irak, kẻ viết bài này đã từng tự hỏi : “Trước một thế giới đảo điên, nếu Mỹ thấm đòn, kinh tế thế giới suy trầm sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Bá quyền khu vực chiếm lĩnh thượng phong “tranh bá đồ vương”, một tai họa còn hơn Thực dân, Quốc xã, Cộng sản, Đế quốc Nhựt, … đang ẩn hiện ở cuối chân trời.Nhân loại phải chăng đang bước vào một thời kỳ đầy bất trắc?» (10)

Tâm Tư
(11-2010)

Ghi chú

(1) Le Financial Times écrit: «Si la General Motors croit en Dieu, elle doit sans doute être en train de prier à genoux pour le remercier de l’existence de la Chine. L’an dernier, la vente des voitures GM en Chine a augmenté de 66 pour cent, alors qu’aux États-Unis, elle baissait de 30 pour cent. Sans la Chine, la GM n’aurait pu être sauvée.»

Les chiffres de vente élevés de la General Motors et de la plupart des autres entreprises américaines en Chine ne sont possibles que parce que l’économie et le pouvoir d’achat de la population y croissent rapidement. C’est une bonne chose, non seulement pour les entreprises américaines en Chine, mais pour toute l’économie mondiale.

(2) Le Monde 10-11-2010 : Science : la Chine ébranle le monde : les brevets montrent encore une hégémonie quasi complète de la Triade (Etats-Unis, Europe, Japon). Mais que vaut cette domination lorsque les grands contrats industriels s’accompagnent de cessions de technologies ou que des firmes des économies émergentes «achètent des grandes entreprises dans des pays développés, acquérant du jour au lendemain leur capital-savoir» ? Comme l’acquisition du français Rhodia Silicone (et de son portefeuille de brevets) par BlueStar, dont le nom ne dit pas qu’il s’agit d’une firme… chinoise.

(3) Le Figaro 16/11/2010 : La Chine défie Boeing et Airbus

Attendu dans le ciel en 2016, le rival des Airbus A 320 et Boeing B 737 est la vedette du salon aéronautique chinois. Le C919, commandé à 100 exemplaires, porte les espoirs de Pékin de devenir un géant de l’aviation civile.

La vedette, au salon aéronautique de Zhuhai, qui a ouvert ses portes ce mardi dans le sud de la Chine, est un avion qui ne vole pas ! Des dizaines d’officiels chinois, entourés d’une myriade de gardes du corps, ont convergé vers le salon où était annoncée en grande pompe la première commande d’une centaine de C 919, le futur avion de ligne chinois. En haie d’honneur, des maquettes aux robes différentes renseignaient sur les acheteurs pionniers : quatre grandes compagnies chinoises (Air China, China Eastern, China Southern et Hainan Airlines) et deux sociétés de leasing, l’une chinoise, Guoyin Financial, et l’autre américaine, GE Capital Aviation Services.

Cette commande de 100 appareils donne du corps au programme de Comac (Commercial Aircraft Corp. of China), qui prévoit un premier vol d’essai en 2014 et la première livraison à partir de 2016. Le C 919 est un appareil monocouloir de 168 à 190 places, court ou moyen- courrier et, donc, un concurrent direct des Airbus A 320 et Boeing 737.

(4) LEMONDE.FR 28.10.10 : Dans la course aux performances des super-calculateurs, la Chine a vraisemblablement détrôné, jeudi 28 octobre, les Etats-Unis. Conçu par deux cents ingénieurs, le Tianhe-1A (“voix lactée”) est un superordinateur hébergé au National Center for Supercomputing, dans la ville de Tianjin, dans le nord-est de la Chine.

Le système a une capacité de 2,507 pétaflops par seconde, soit l’équivalent de 2,5 millions de milliards d’opérations par seconde. Jusqu’à présent, c’était le système Jaguar, du département de l’énergie américain, qui disposait de la plus grande puissance de calcul, avec 1,75 pétaflops par seconde.

(5)RFI ngày 19-11-2010: Sự kiện đáng ngại nhất vừa được Ủy ban Xét duyệt An ninh và Kinh tế Mỹ – Trung nêu bật trong bản báo cáo thường niên trình lên Thượng viện Mỹ hôm 17/11/2010 vừa qua : Đó là vào ngày 08/04/2010, thông qua một thủ thuật tin học, Bắc Kinh đã lái được 15% lượng thông tin lưu hành trên Internet trên toàn cầu, đi vòng qua các máy chủ đặt tại Trung Quốc trong vòng 18 phút đồng hồ.

Các thông tin bị chuyển hướng bao gồm các dữ liệu ra và vào website của rất nhiều định chế trọng yếu của Hoa Kỳ như Thượng viện, Lục quân, Hải quân, Thủy quân lục chiến, Không quân, Bộ Quốc phòng, Cơ quan Hàng không Không gian NASA, Cơ quan Quản trị Khí quyển và Đại dương quốc gia, và các văn phòng chính phủ khác. Ngoài ra cũng có một số tập đoàn thương mại như Dell, Yahoo, Microsoft và IBM.

(6) Le Monde 10-11-2010 : Science : la Chine ébranle le monde : «Les cinq dernières années, qui font l’objet du présent rapport de l’Unesco sur la science, ont commencé véritablement à ébranler la suprématie traditionnelle des Etats-Unis.» Cette phrase, issue d’un rapport publié aujourd’hui par l’ONU, pèse lourd. Annoncer un bouleversement géopolitique en rupture avec les soixante années qui viennent de s’écouler exige quelques arguments.

Des signes du basculement se lisent dans la production des laboratoires de recherche. Depuis 2008, indique l’institut Scimago, la première institution scientifique du monde en nombre d’articles publiés est… l’Académie des sciences de Chine. Le classement par pays montre le séisme en cours dans la science mondiale. La Chine y était presque invisible en 1980. Elle pointe au quatrième rang, pour la période 1996-2008, suivie de l’Allemagne et de la France, précédée par le Japon, le Royaume-Uni et les Etats-Unis. En 2008, la Chine est deuxième. Dans quelques années, il y aura «plus de chercheurs dans les laboratoires chinois qu’aux Etats-Unis», prédit le rapport.

(7) Nguồn: Báo “АПН” (Агенство политических новостей) ,ra ngày thứ Tư, 15.4.2010 (http://www.apn.ru/publications/article20310.htm)- Theo bản dịch của long Lã Nguyên

(8)theo cuốn sách The three trillion dollar war –The true cost of the Iraq war của Joseph E. Stiglitz & Linda B. Bilmes, nxb W.W. Norton, NY 2008)

(9) Tuần báo le nouvel Observateur (5-11/9/2002): Pour une hyperpuissance soft

(10) Bài Họa chiến tranh (25-1-2003)

NGÀY TÀN CỦA 3 NƯỚC CỘNG SẢN — BA LAN, ĐÔNG ĐỨC VÀ TIỆP KHẮC

1- Ba Lan

Ba Lan là một lãnh thổ bằng phẳng nằm tại miền trung của châu Âu, rộng bằng nước Mễ Tây Cơ và có dân số là 37 triệu người. Từ 1,000 năm về trước và qua thời Trung Cổ, Ba Lan đã là một vương quốc quan trọng cho tới cuối thế kỷ 18, xứ sở này đã bị xóa tên trên bản đồ, bị chia ba giữa ba cường quốc là Nga, Áo và Phổ. Nhưng rồi người dân Ba Lan đã vùng lên, giành độc lập vào năm 1918.

Vào tháng 9-1939, đất nước Ba Lan lại bị dẫm nát bởi quân đội nước ngoài: quân đội Quốc Xã Đức tiến vào từ hướng tây và quân đội Xô Viết từ hướng đông. Ba Lan đã là bãi chiến trường, là địa điểm của rất nhiều trại tập trung mà xấu xa nhất là trại Auschwitz, chuyên việc tận diệt các kẻ chống đối, các tù binh, các người Do Thái.

Sau Thế Chiến Thứ Hai, Ba Lan đã lấy lại được phần đất đã mất trước kia do Quốc Xã Đức chiếm, nhưng từ năm 1948, các người cộng sản đã nắm được chính quyền, tạo nên một thể chế cộng sản theo kiểu mẫu Liên Xô. Tới năm 1956, không lâu sau khi ông Nikita Khrushchev tố cáo các tội ác khủng khiếp của Stalin, do tinh thần quốc gia tiềm ẩn, do lòng bất khuất và do nỗi bất mãn về kinh tế, người dân Ba Lan đã nổi dậy tại tỉnh Poznan. Các bạo loạn trong xứ đã làm cho Bộ Chính Trị phải thay đổi và ông Wladyslaw Gomulka được đưa ra lãnh đạo Đảng. Ông Gomulka liền bỏ chương trình tập thể hóa các nông trại, cho nới lỏng một số luật lệ và cải thiện liên lạc với Nhà Thờ Công Giáo. Nhưng trong cuộc nổi dậy của các công nhân tại Gdansk vào tháng 12-1970, các công nhân này đã bị đàn áp một cách tàn nhẫn, ít nhất có 44 người bị giết. Ông Gomulka sau đó bị thay thế bởi ông Edward Gierek, một người tìm cách hòa hoãn với khối tây phương. Nhưng tình trạng kinh tế tuột dốc đã gây nên nhiều làn sóng phản đối mới vào năm 1976.

Năm 1978, người dân Ba Lan lại vui mừng vì vị Tổng Giám Mục miền Cracow trở nên Đức Giáo Hoàng John Paul II. Sự kiện này đã đóng một vai trò gián tiếp trong việc khai tử chế độ Cộng Sản tại Đông Âu bởi vì trong các năm dài sống dưới chế độ cộng sản, người dân Ba Lan vẫn duy trì niềm tin Công Giáo Catholic, họ lấy lại can đảm để đương đầu với các kẻ cầm quyền độc ác.

Ngày 14 tháng 8 năm 1980, Công Đoàn Đoàn Kết (Solidarity Trade Union) ra đời và ông Lech Walesa, một người thợ điện, là lãnh tụ của phong trào đòi Dân Chủ cho đất nước Ba Lan. Hoạt động của Công Đoàn kể trên đã chấm dứt sự nghiệp chính trị của ông Edward Gierek và ông Wojciech Jaruzelski thay thế. 15 tháng phát triển của Công Đoàn Đoàn Kết cũng là “điềm báo tử” cho chế độ Cộng Sản tại Ba Lan. Với số đoàn viên lên tới 10 triệu, Công Đoàn Đoàn Kết đã là một tổ chức có thực lực để đòi hỏi các cuộc bầu cử tự do và một chính quyền hợp pháp không cộng sản. Vào ngày 13-12-1981, dưới áp lực của Liên Xô lúc đó do ông Leonid Brezhnev lãnh đạo, Tướng Jaruzelski phải công bố tình trạng quân luật, giải tán Công Đoàn Đoàn Kết, bắt giam các lãnh tụ và các người hoạt động cho Công Đoàn, ra lệnh hủy bỏ mọi hình thức cởi mở mới được ban hành, tuy nhiên những mệnh lệnh này chưa thực sự tiêu diệt được Công Đoàn Đoàn Kết.

Khi ông Mikhail S. Gorbachev lên nắm quyền tại Liên Xô, khi các áp lực Xô Viết tại Ba Lan giảm đi, Công Đoàn Đoàn Kết đã lấy lại được khí thế cũ. Mùa xuân năm 1989, Công Đoàn đã được chính thức công nhận và đã thắng gần hết các ghế đại biểu trong các cuộc bầu cử.

Tháng 8-1989, Ba Lan là nước đầu tiên có một thủ tướng không cộng sản kể từ năm 1948, đó là ông Tadeusz Mazowiecki, một nhà trí thức Catholic và cũng là một người bạn thân của ông Lech Walesa. Chính phủ mới này tập trung vào việc cải tổ kinh tế nên đã đưa ra nhiều biện pháp khắc khổ để khắc phục nạn lạm phát và đưa đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường. Tới mùa hè năm 1990, sau khi các người cộng sản bị gạt sang một bên rồi, nội bộ của Công Đoàn Đoàn Kết lại bị tách ra làm hai: phe khuynh hữu với ông Lech Walesa và phe khuynh tả với ông Mazowiecki nhưng cuối cùng ông Lech Walesa đã thắng trong cuộc bầu cử Tổng Thống năm 1990.

Vào tháng 10 năm 1991 là cuộc bầu cử Quốc Hội tự do đầu tiên nhưng trong các năm sau, nước Ba Lan đã có rất nhiều đảng phái, có 5 thủ tướng, gặp nạn lạm phát và cảnh thất nghiệp cao, hàng ngàn nông trại trên bờ phá sản.

2- Đông Đức

Nước Đức là quốc gia giàu có và đông dân nhất châu Âu, hiện nay gồm 77.5 triệu người. Nước Đức có lịch sử chính trị từ thời Vua Charlemagne, giống như nước Pháp, nhưng các lãnh địa đã bị chia rẽ và chỉ hợp lại thành một quốc gia thống nhất vào năm 1871. Sau đó Thủ Tướng Otto Bismark và các nhà lãnh đạo khác đã cố công theo đuổi các chính sách bành trướng lãnh thổ, dẫn tới Thế Chiến Thứ Nhất vào năm 1914. Sau khi thất trận, nước Đức lại cố gắng vươn lên rồi dân tộc Đức vì bị thất vọng về kinh tế suy kém, đã trông nhờ vào nhà độc tài Adolf Hitler.

Vào năm 1945, nước Đức Quốc Xã thất trận nên lãnh thổ Đức bị phân chia thành bốn khu vực chiếm đóng bởi Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Liên Xô. Ba khu vực phia tây được phối hợp lại năm 1949 thành nước Cộng Hòa Liên Bang Đức hay nước Tây Đức rồi không lâu sau đó, Liên Xô cũng tạo nên nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức (the German Democratic Republic) hay còn gọi là nước Đông Đức.

Trong nửa thời gian đầu, Đông Đức ở dưới quyền cai trị cứng dắn của ông Walter Ulbricht, với đường lối thù nghịch Tây Đức và cao điểm của sự đối đầu là việc xây dựng nên Bức Tường Bá Linh. Vào nửa giai đoạn sau dưới quyền của ông Erich Honecker, Đông Đức đã dịu bớt sự căng thẳng vì chính sách hòa hoãn “Ostpolitik” giữa hai miền nước Đức của ông Willy Brandt.

Giống như nước Đức bị chia cắt vào năm 1949, thành phố Bá Linh cũng bị phân chia và một khu vực của thành phố này thuộc về Đông Đức. Tuy nhiên, đường ranh giữa hai khu vực Đông và Tây Bá Linh vẫn là khe hở của Tấm Màn Sắt và các người sống dưới chế độ cộng sản Đông Đức thường trốn qua Tây Đức bằng khe hở này. Ngày 13 tháng 8 năm 1961, để chặn đứng những người vượt biên, chính quyền Đông Đức đã cho dựng nên Bức Tường ngăn cách Đông và Tây thành phố Bá Linh. Tại bức tường cao xây bằng bê-tông trên có hàng rào kẽm gai này, binh lính Đông Đức được lệnh bắn bỏ những người tìm cách leo qua tường, tìm tự do. Theo ước lượng vào năm 1992, đã có hơn 200 người dân Đông Đức bị bắn chết.

Tại Đông Đức về kinh tế, người dân giàu có hơn tất cả các dân tộc theo xã hội chủ nghĩa khác, nhưng họ vẫn bất mãn khi so sánh với mức sống của người dân anh em Tây Đức, bất mãn khi không được phép đi ra nước ngoài. Vào mùa hè năm 1989, hàng ngàn người Đông Đức đã vượt sang nước Hungari và tràn vào các tòa đại sứ của Tây Đức tại hai thành phố Prague và Warsaw. Hàng triệu người trên thế giới đã chứng kiến cảnh tượng này trên màn ảnh vô tuyến truyền hình: đây là cảnh “bỏ phiếu bằng chân” của những người sống trong chế độ cộng sản! Tới tháng 9-1989, số người biểu tình tại các thành phố của Đông Đức đã gia tăng rất cao, họ hát câu “chúng tôi muốn ở lại” và đòi hỏi chính quyền cộng sản phải thay đổi đường lối cai trị. Ông Erich Honecker vì thế phải từ chức, thay thế bằng ông Egon Krenz và các nhà lãnh đạo Đông Đức phải ra lệnh mở Bức Tường Bá Linh. Trong vài ngày, hàng triệu người dân Đông Đức đã vượt qua khu Tây Bá Linh. Một câu chuyện vui kể lại rằng khi ông Erich Honecker tỉnh dậy, thấy khu Đông Bá Linh không còn bóng người nhưng vẫn còn thắp đèn sáng, ông bèn tới Bức Tường Bá Linh và thấy một mẩu giấy ghi rõ câu : “ai đi sau cùng nhớ tắt đèn”.

Kể từ khi ông Egon Krenz quản trị Đông Đức, xứ sở này trong nhiều tháng vẫn chìm vào trong các rối loạn chính trị. Tháng 3 năm 1990, đã có các cuộc bầu cử tự do đầu tiên và Công Đoàn Dân Chủ Thiên Chúa Giáo (the Christian Democratic Union), một đảng phái mới được thành lập của những người Dân Chủ Thiên Chúa Giáo Tây Đức, đã chiếm được 41% số phiếu. Trong khi đó tại Tây Đức, Thủ Tướng Helmut Kohl không ngừng theo đuổi chương trình thống nhất nước Đức vì vậy vào tháng 3-1990, tại thành phố Bonn đã diễn ra các cuộc thảo luận “Hai cộng Bốn”, gồm 2 nước Đông và Tây Đức với 4 nước chiến thắng trong Thế Chiến Thứ Hai là Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Liên Xô rồi vào ngày 12-9-1990, cả 6 nước kể trên đã ký tên vào “Hiệp Ước ổn định cuối cùng đối với nước Đức” (the Final Settlement with Respect to Germany) và sự kiện này chính thức chấm dứt Thế Chiến Thứ Hai.

Hiệp ước Ổn Định kể trên đã mở đường cho việc thống nhất nước Đức, và bắt đầu từ nửa đêm ngày 2-10-1990, nước Đông Đức không còn hiện hữu nữa mà trở thành 5 tiểu bang mới của Cộng Hòa Liên Bang Đức.

Kể từ ngày thành lập 7-10-1949, xứ sở cộng sản Đông Đức với dân số 16 triệu người và diện tích bằng tiểu bang Tennessee, với tên gọi là Cộng Hòa Dân Chủ Đức, đã cáo chung sau khi tồn tại được 40 năm và 360 ngày!

3- Tiệp Khắc

Tiệp Khắc là quốc gia nằm giữa châu Âu, gồm ba xứ hợp lại là Bohemia, Moravia và Slovakia. Từ nhiều thế kỷ, Tiệp Khắc vẫn theo đuổi nền dân chủ cho tới khi bị Đức Quốc Xã tấn công vào năm 1938. Sau khi nước Đức bị thua trận, một chính quyền Cộng sản theo Stalin được thiết lập tại Tiệp Khắc từ tháng 2-1948 tới đầu thập niên 1960. Vào lúc này và do nền kinh tế suy sụp, các người cầm quyền cộng sản đã tìm cách cải tổ kinh tế và nới lỏng các kiểm soát chính trị. Tiến trình cải cách đã đi tới cao điểm gọi là “Mùa Xuân Praha” (the Prague Spring) của năm 1968 do nhân vật cộng sản cải cách lãnh đạo tên là Alexander Dubcek.

Ông Alexander Dubcek (1921-92) chào đời vài tháng sau khi cha mẹ của ông từ thành phố Chicago, Hoa Kỳ, trở về xứ Slovakia. Ông Dubcek đã trải qua tuổi trẻ tại Liên Xô. Đầu năm 1968, ông Dubcek công bố một chương trình cải tiến gọi là “Xã Hội Chủ Nghĩa với bộ mặt con người” (Socialism with a human face). Trong thời gian 8 tháng dễ thở này, từ tháng 1 tới ngày 20-8-1968, ông Dubcek là hình ảnh của hy vọng cho người dân Tiệp Khắc. Liên Xô, dưới quyền lãnh đạo của ông Leonid Brezhnev, coi các cải tiến tại Tiệp Khắc là “quá nguy hiểm” cho thể chế cộng sản, nên đã đàn áp phong trào “Mùa Xuân Praha” bằng 500,000 quân thuộc Minh Ước Warsaw (the Warsaw Pact).

Warsaw là liên minh quân sự được thành lập năm 1955 để đối đầu với khối Nato. Các thành phần ban đầu của Minh Ước Warsaw gồm 8 nước: Tiệp Khắc, Đông Đức, Ba Lan, Hungari, Romania, Bulgaria, Albania và Liên Xô. Hành động quân sự duy nhất của liên minh này là cuộc xâm lăng Tiệp Khắc vào tháng 8-1968 trong đó Romania không tham gia. Vào đầu thập niên 1960, nước Albania không tham dự vào liên minh Warsaw rồi chính thức rút lui vào năm 1968. Minh Ước Warsaw bị giải thể vào tháng 7-1991.

Năm 1987, khi bị hỏi về sự khác biệt giữa “Mùa Xuân Praha” của ông Dubcek và các chương trình “Glasnost” và “Perestroika” của ông Gorbachev, người phát ngôn thuộc Bộ Ngoại Giao Liên Xô đã trả lời rằng: “19 năm”!

Sau khi ông Alexander Dubcek bị bắt về giam tại Liên Xô và phong trào “Mùa Xuân Praha” bị dẹp tan, một nhân vật cộng sản cứng dắn mới lên nắm quyền tại Tiệp Khắc, đó là ông Gustav Husak. Từ nay, tất cả những người có khuynh hướng cải tiến đều bị thanh trừng, hầu như mọi người dân Tiệp Khắc đều thu mình lại để được an toàn, thế nhưng vẫn còn một số ít người rất can đảm, cả nam lẫn nữ, đã tập hợp lại một cách lỏng lẻo để tạo nên một nhóm chống đối các kẻ đàn áp: “Nhóm Hiến Chương 77″ (The Charter 77).

Vào khoảng đầu tháng 1 năm 1977, một nhóm 242 người bất đồng chính kiến gốc Tiệp và Slovak, đã họp lại và ký tên vào một bản Tuyên Ngôn (manifesto) qua đó họ liệt kê các đòi hỏi căn bản về Nhân Quyền (basic human rights). Mặc dù đã được viết bằng những từ ngữ thận trọng, bản Hiến Chương 77 đã gây nên các hành động giận dữ của chính quyền Cộng Sản Tiệp Khắc: các người ký tên trong đó có ông Vaclav Havel, đều bị bắt, bị lưu đầy, bị xách nhiễu nhưng những nhân vật anh hùng này đã là hạt nhân cho phong trào phản kháng 12 năm về sau tại Tiệp Khắc.

20 năm sau ngày quân đội của Hiệp Ước Warsaw xâm lăng Tiệp Khắc, đã có vào khoảng 20,000 người biểu tình đòi dân chủ, chống lại chế độ Cộng Sản vào ngày 21-8-1988 trước sự ngỡ ngàng của công an và đảng cộng sản cầm quyền. Đây là cuộc phản đối lớn nhất kể từ năm 1969 và cảnh sát đã phải dùng hơi cay để giải tán, 400 người bị bắt.

Tại thành phố Prague, cuộc biểu tình phản đối đã diễn ra từ ngày 15 tới ngày 20-1-1989 và cảnh sát cộng sản đã phải dùng dùi cui, hơi cay, vòi nước và chó dữ để dẹp biểu tình. Trong số người bị bắt lại có ông Vaclav Havel. Ngày 21-2, ông Havel bị tuyên án 8 tháng tù vì có hành vi “chống nhà nước và xã hội chủ nghĩa”. Nhiều người bất đồng chính kiến khác cũng bị tuyên án tương tự. Rồi 2,000 thanh niên đã tham gia biểu tình đòi dân chủ vào ngày 1-5-89, họ cũng bị đàn áp. Tới ngày 17-5-89, ông Havel được thả khỏi nhà tù vì đã “học tập tốt” theo lời của chính quyền cộng sản, nhưng thực ra là do sự chỉ trích của khối Tây Phương. Rồi 35,000 người bất đồng chính kiến, phản đối chế độ Cộng Sản, đòi hỏi Dân Chủ, đã ký tên vào một thỉnh nguyện thư yêu cầu phải “thay đổi tận gốc không khí xã hội và chính trị”.

Các biểu tình phản kháng vẫn tiếp tục diễn ra tại Prague vào các ngày 28-8, 17-11, 20-11, 27-11-1989 rồi tới ngày 29-11, chính quyền cộng sản phải công nhận hủy bỏ vai trò lãnh đạo của đảng Cộng Sản. Ngày 10-12-1989, một chính quyền liên bang mới được thành lập và chủ tịch Husak từ chức. Ông Alexander Dubcek được bầu làm chủ tịch của Quốc Hội Liên Bang ngày 28-12 rồi ngày hôm sau, ông Vaclav Havel được bầu làm Tổng Thống của nước cộng hòa.

Ông Havel đã thăm viếng Moscow vào hai ngày 26, 27-2-1990 và ký với ông Gorbachev một thỏa ước theo đó 73,500 quân Xô Viết phải rút khỏi Tiệp Khắc vào tháng 7 năm 1991. Nước Tiệp Khắc vào giai đoạn này đã gặp rất nhiều vấn đề khó giải quyết, chẳng hạn làm sao loại bỏ “giới cầm quyền cũ Nomenclatura” (nhóm cựu đảng viên C.S.) ra khỏi các chức vụ cao, làm sao tháo gỡ được hệ thống kinh tế chỉ huy phức tạp và nặng nề và làm sao giải quyết êm đẹp các căng thẳng quốc gia với xứ Slovakia, rồi cuối cùng, nước Tiệp Khắc bị chia làm hai xứ riêng rẽ vào tháng 1-1993: đó là hai nước cộng hòa Tiệp (Czech) và Slovak.


Phạm Văn Tuấn

CÁCH MẠNG DÂN TỘC, DÂN CHỦ LẬT ĐỔ CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN ĐỘC TÀI, PHẢN DÂN TỘC,PHI .. .

Không ai chối cãi rằng chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay là một chế độ phản dân, hại nước, một chế độ phi dân chủ, phản nhân quyền, đi ngược lại đà tiến bộ của văn minh nhân loại. Chế độ này sớm muộn sẽ bị đào thải. Nhưng nó bị đào thải như thế nào ? Dân tộc Việt Nam, kể tất cả mọi thành phần, từ nông dân, công nhân, trí thức, cho tới ngay cả những người cộng sản phản tỉnh, phải làm gì để giật sập chế độ này?

Nói một cách khác, cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ sẽ diễn ra thế nào ở Việt Nam trong tương lai.

Chúng ta hãy cùng nhau xét vấn đề.

Cách mạng là gì?

Cách mang theo nghĩa đông phương, thì cách là lấy đi, mạng là số mạng, theo đó một ông vua là được mạng trời để trị dân; nhưng ý dân là ý trời; làm trái ý dân là trái ý trời; vì vậy những ông vua tàn bạo, làm trái ý dân có nghĩa là làm trái ý trời, nên trời đã lấy lại cái mạng đi. Như vua Trụ bên Tàu tàn bạo, nên vua Trụ đã bị trời cách cái mạng đi để trao cho cho Vũ Vương nhà Chu.

Theo tây phương, chữ cách mạng (révolution) lúc đầu có nghĩa là một chu kỳ; như trái đất quay chung quanh mặt trời một vòng là cách mạng; nhưng về sau, cách mạng có nghĩa là một sự thay đổi lớn; như thuốc trụ sinh là một cuộc cách mạng trong y khoa; váy ngắn phụ nữ là một cuộc cách mạng trong thời trang y phục.

Trong lãnh vực chính trị, kinh tế, lịch sử và xã hội, thì cách mạng có nghĩa là một thay đổi lớn, mau lẹ, nhằm vào 3 cơ chế chính, chứ không phải nhằm vào những cơ chế phụ, của một xã hội:

1) Thay đổi thể chế chính trị, chẳng hạn từ quân chủ sang dân chủ, ngày hôm nay thường là bắt đầu bằng thay đổi hiến pháp, vì hiến pháp thường được coi là nền tảng của một chế độ.

2) Thay đổi giai tầng lãnh đạo, vì những người này là những người thi hành của chế độ cũ.

3) Thay đổi trật tự xã hội; vì thường khi cách mạng xảy ra là vì xã hội trở nên quá bất công, nên cần phải thay đổi trật tự cũ bất công bằng một trật tự mới công bằng hơn.

Một câu hỏi đến với chúng ta là tại sao Việt Nam hiện nay cần phải có cách mạng chứ không phải cải cách?

Câu trả lời đó là chế độ hiện nay là một chế độ độc tài đi ngược lại lòng dân và trái với chiều hướng tiến bộ của nhân loại. Hiến pháp hiện hành vẫn cho rằng «Chủ nghĩa Mác Lê là nền tảng, là ánh sáng soi đường cho chế độ». Trong khi đó thì cả thế giới kết án chủ thuyết này, chỉ mang lại độc đoán, độc tài, bất công và nghèo đói cho dân tộc nào phải chịu sự áp dụng của chủ thuyết này. Bà thủ tướng Đức Angela Merkel, tổng thống Nga Mevdevev, những người đã từng sống dưới chế độ cộng sản, đã không ngần ngại tuyên bố là chế độ cộng sản là một guồng máy sản xuất sự dối trá, giết người và đau khổ, không những cho chính nước theo chủ nghĩa đó, mà còn cho nước khác.

Giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam hiện nay, thì nói như nhà văn Dương Thu Hương: «Dân tộc Việt Nam dù có mù chữ chăng nữa cũng nhận thấy giới lãnh đạo cộng sản vừa tối tăm, ngu dốt, vừa ác ôn, côn đồ và hèn hạ.» Giới lãnh đạo như vật thì làn sao có thể đưa đất nước đến chỗ tiến bộ.

Về trật tự xã hội, thì trật tự hiện hành là một trật tự quá bất công. Đảng đoàn cán bộ, con ông cháu cha tiêu tiền vứt qua cửa sổ, trong khi đó người dân không có tới 1$, một ngày để sống. Tình trạng nhà thương, trường học thì xuống cấp. Bằng cấp giả tràn lan. Tệ nạn xã hội thì tăng thêm mỗi ngày. Con có thể giết cha mẹ, cha mẹ có thể bán con vì một vài chục $.

Có người còn nói cuộc cách mạng Việt Nam hiện nay còn phải là một cuộc cách mạng dân tộc độc lập cứu quốc và dân chủ kiến quốc. Tại sao?

Đất nước Việt Nam, từ ngày Hồ chí Minh được Đệ Tam Quốc Tế Cộng sản nuôi dưỡng, rồi đưa về cướp chính quyền từ ngày 19/8/1945 tới nay chưa có độc lập. Có tương đối độc lập với Đệ Nhất Cộng Hòa, nhưng ngắn ngủi không đầy 10 năm, còn hoàn toàn bị lệ thuộc, và lỗi chính là họ Hồ và đảng cộng sản, vì họ đã đặt Việt Nam dưới gông cùm cộng sản, biến nước Việt Nam thành bãi chiến trường của cuộc tranh hùng tư bản- cộng sản. Miền Bắc, thì cộng sản hoàn toàn vâng lời cộng sản Nga – Tàu. Trước thì hoàn toàn vâng lời Nga sô, nay thì hoàn toàn vâng lời Tàu.

Trên thực tế Việt Nam hiện nay đang bị Trung Cộng đô hộ lần thứ 5. (1)

Miền Nam, thì để be bờ sự tràn xuống của cộng sản, người Mỹ đã phải đổ bộ quân vào, nhất là dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa, nên chủ quyền quốc gia cũng không còn.

Vì vậy dân tộc Việt phải can đảm đứng lên đấu tranh để làm một cuộc cách mạng dân tộc, độc lập, cứu quốc.


Tại sao lại là cách mạng dân chủ
?

Vì dân chủ là mảnh đất mầu mỡ để cho con người phát triển. Thật vậy, chúng ta có thể ví con người, dù da vàng, da trắng, da đen hay da đỏ, như một hạt mầm. Nếu nó được gieo trên một mảnh đất mầu mỡ, có nghĩa là khi người dân được sống dưới một chế độ dân chủ do chính bàn tay mình bầu ra hay truất phế, có thể khen hay chê giới lãnh đạo, được hưởng những quyền tự do căn bản, như tự do bầu cử, tự do ngôn luận, thì khi đó người dân cũng như hạt mầm được nẩy mầm và phát triển. Ngược lại cũng con người đó, nhưng phải sống dưới một chế độ độc tài, thì tài năng sẽ thui chột. Thí dụ cụ thể nhất là 2 dân tộc Bắc Hàn và Nam Hàn. Cùng là người Hàn, nhưng Nam Hàn theo chế độ dân chủ, mặc dầu mới gần đây, hiện nay là cường quốc kinh tế thứ 10 trên thế giới, vừa mới là chủ nhân tổ chức Hội Nghị Thượng Đỉnh 20 quốc gia lớn nhất trên thế giới. Trong khi đó thì Bắc Hàn theo chế độ độc tài cộng sản, dân đang chết đói

Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ này diễn ra như thế nào, ai là những thành phần tham dự, phải chăng chỉ có những thành phần nghèo đói, như nhiều người nghĩ từ trước tới nay.Không nhất thiết. Chúng ta thấy dân Bắc Hàn đang bị chết đói mà không đứng lên. Trong khi đó, những cuộc cách mạng dân chủ mới xẩy ra gần đây, phần lớn tại những nước có một sự phát triển tương đối cao, giai tầng tham gia phần đông là sĩ phu, trí thức, sinh viên, học sinh, thường thuộc giai tầng trung lưu.

Vì là một cuộc cách mạng độc lập cứu quốc và dân chủ kiến quốc, nên nó liên quan đến mọi người không phân biệt giai tầng xã hội, từ nông dân, tới công nhân qua sĩ phu, trí thức và ngay cả những người cộng sản, phản tỉnh yêu nước.

Cuộc cách mạng này diễn ra dưới hình thức bạo động hay bất bạo động?

Thật khó có câu trả lời chính xác. Xét kinh nhiệm lịch sử trong quá khứ và nhất là qua những cuộc cách mạng dân chủ gần đây, từ Liên Sô qua Đông Âu, tới Phi luật Tân, Nam dương, thì thường là từ những bất mãn của dân đã ngấm ngầm chồng chất từ lâu, sau đó lan sang giới sinh viên, học sinh, rồi ngay cả giới cầm quyền, làm cho chính quyền phân tán và đi đến chỗ sụp đổ.

Ngày hôm nay, nhiều người nghi ngại về khủng bố, nên khi nói đến bạo động, thường sợ bị cáo buộc là khủng bố. Nhưng chúng ta phải nhớ đến quyền tự vệ chính đáng của người dân. Khi người dân bị đàn áp bóc lột đến quá độ, thì họ có quyền dùng bất cứ phương pháp nào để tự vệ, điều được ghi ngay trong Lời Tuyên Bố Độc Lập Hoa kỳ và cả trong Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền. Hiện nay hàng năm có cả 100 000 cuộc nổi dậy ở Trung Cộng, có những vụ sô xát, để tự vệ, người dân dùng ngay cả cuốc thuổng, dao búa, để chống trả lại, có những vụ làm chết và bị thương cả ngàn người về 2 phía chính quyền và người dân; nhưng thế giới không kết án là khủng bố, vì đây là quyền tự vệ chính đáng của người dân.

Tất nhiên những cuộc biểu tình này phải được hướng dẫn và tổ chức. Những người lãnh đạo không nhất thiết là những người sĩ phu, trí thức, có thể là đại diện giới thợ thuyền, công nhân như Lec Walesa ở Ba Lan, với sự giúp đỡ của giới trí thức, có thể lãnh đạo bởi ngay những người cộng sản phản tỉnh như Boris Etlsine ở Liên Sô. Nếu biến cố Thiên An Môn thành công, thì đây cũng là một cuộc cách mạng, và người lãnh đạo không ai hơn là Triệu tử Dương, đương kim Tổng bí thư đảng cộng sản Trung quốc. Ở Nam Dương và Phi luật Tân, thì giai tầng trí thức và sinh viên giữ vai trò quan trọng, đặc biệt là ở Phi thì đằng sau có sự cố vấn của những lãnh tụ tôn giáo.

Cuộc cách mạng tương lai Việt Nam là một cuộc cách mạng dân tộc, độc lập, cứu quốc, vì Việt Nam hiện nay đang bị đô hộ bởi Trung Cộng, giới lãnh đạo CSVN chỉ là tay sai, thái thú, Trung cộng đang áp dụng một chính sách đô hộ vô cùng thâm độc, dùng người bản sứ để cai trị người bản sứ, dùng chính sách tằm ăn dâu, gậm nhấm từng tấc đất của chúng ta; đó là một cuộc cách mạng dân chủ kiến quốc, vì dân chủ là mảnh đất mầu mở để cho con người phát triển, để cho dân giàu, nước mạnh. Dân có giầu, nước có mạnh mới có thể giữ vững được nền độc lập và theo kịp đà tiến hóa của văn minh nhân loại. (1)

Nó liên quan đến mọi người, mọi giai tầng, ngay cả những người cộng sản phản tỉnh, yêu nước, sớm thức thời, đứng về hàng ngũ quốc gia, dân tộc, từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, tránh sự lệ thuộc Trung cộng.

Chu chi Nam
Paris ngày 26/11/2010

(1) Xin xem thêm những bài về cách mạng, trên http://perso.orange.fr/chuchinam/

Sự suy đồi cộng sản

Sự suy đồi cộng sản

Bùi Quang Vơm – Không có gì được giải đáp- đó là cảm nhận nhưng cũng là thực tế kết quả của ba ngày chất vấn (22/11 tới ngày 24/11/10) trên diễn đàn Quốc Hội. Người ta đã chờ đợi và hy vọng rất nhiều. Người ta cũng hồi hộp và lo sợ không kém. […]

Asia Sentinel: Trung Quốc đối đầu thế giới

Asia Sentinel: Trung Quốc đối đầu thế giới

via TIN TỨC HÀNG NGÀY by DailyVNews on 11/30/10

– Jonathan Fenby Theo: X-cafevn Diên Vỹ chuyển ngữ – Sau khi đưa Trung Quốc vào con đường kinh tế thị trường vào năm 1978, Đặng Tiểu Bình khuyên nên cẩn thận trong vấn đề đối ngoại. Ông nói rằng Trung Quốc nên ẩn mình trong khi làm giàu và đừng đánh động những […]

Chủ quyền, danh dự của dân tộc và cuộc tranh đấu bảo vệ nó

Từ kinh nghiệm của người Ba Lan cho thấy, để đạt được kết quả, phong trào vận động phải rất kiên trì, cương quyết và liên tục với sự tham gia rộng rãi của quần chúng trong cũng như ngoài nước. Ngoài ra không thể thiếu được yếu tố vận động tích cực của chính quyền.

Các trại tập trung giết người hàng loạt do quân phát xít Hitler thiết lập tại Ba Lan trong Thế chiến II là một trong những dấu ấn sâu sắc về tội ác diệt chủng trong lịch sử nhân loại.

Auschwitz-Birkenau được xem là trại tập trung khủng khiếp bậc nhất nằm ở phía nam Ba Lan.

27 Tháng 1 năm 1945, Auschwitz-Birkenau được giải phóng bởi Hồng quân Liên Xô. Cho đến ngày nay nó vẫn là một biểu tượng bi thảm của tội ác. Khoảng 1,1 đến 1,5 triệu người vô tội của các dân tộc và tôn giáo khác nhau đã bị giết hại tại đây, trong đó 90% là người Do Thái. Người Ba Lan là nạn nhân đứng thứ hai với số người bị giết hại khoảng 75 ngàn.

Cổng vào trại tập trung Auschwitrz với dòng chữ tiếng Đức: "Lao động mang lại tự do" – Foto: Tư liệu

Mọi thứ đều rõ như ban ngày. Auschwitz được gìn giữ nguyên trạng và trở thành khu chứng tích lịch sử trong danh sách của Unesco.

Thế nhưng cũng có kẻ điên rồ phủ nhận thực tế này. Người đó là đương kim Tổng thống Iran Mahmoud Ahmadinejad.

Mahmoud Ahmadinejad đã từng tuyên bố không dưới một lần rằng, ông ta muốn xóa bỏ nhà nước Do Thái (Israel) trên bản đồ thế giới. Cho nên cũng dễ hiểu vì sao ông ta đã ăn nói ngông cuồng rằng, các trại tập trung là chuyện bịa đặt, thêu dệt của người Do Thái.

Chỉ đáng trách là các tờ báo lớn và cơ quan truền thông có uy tín hàng đầu của Hoa Kỳ và thế giới! Không biết vô tình hay cố ý, khi họ nói về các trại tập trung của Đức Quốc Xã, từ ngữ đã được sử dụng không chính xác.

“The Wall Street Journal”, “New York Times”, “Washington Post”, hãng tin AP và DPA của Đức, gần đây thay vì “các trại tập trung của Đức Quốc Xã ở Ba Lan”, đã viết là “các trại tập trung Ba Lan”.

Bộ Ngoại giao Ba Lan đã lên tiếng phản đối chính thức vì cho rằng cách viết trên đây gây ngộ nhận đối với nhiều người không nắm vững các biến cố lịch sử, nhất là giới trẻ. Các trại diệt chủng có thể được hiểu là của Ba Lan. Phía Ba Lan đã đề nghị các tờ báo và hãng tin phải cải chính, nhưng bị lờ đi.

Thế là một chiến dịch của người Ba Lan tại New York nổ ra. Đã nhiều lần, người Ba Lan tập trung đông đảo biểu tình trước trụ sở của “The Wall Street Journal” phản đối tờ báo sử dụng cụm “các trại giết người Ba Lan”.

Gần 100 ngàn người Ba Lan trong đó có Lech Walesa, cựu Thủ lĩnh Công đoàn Đoàn Kết Ba Lan, Nobel Hòa Bình năm 1983 và Zbigniew Brzezinski, cựu Cố vấn An ninh của Tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Cater, đã ký tên kiến nghị tới các phương tiện truyền thông của Hoa Kỳ yêu cầu chấn chỉnh phong cách biên tập chính xác trên các phương tiện truyền thông lớn nhất của Mỹ.

Theo tin của của “Newsweek” ấn bản Ba Lan, trong ngày thứ Hai, 29/11, “The Wall Street Journal” đã ghi nhận sai sót của mình.

“Xin lưu ý: Không phải là trại tập trung của Ba Lan trong Thế chiến II. Trại tập trung Auschwitz và các trại tương tự khác trên lãnh thổ Ba Lan là do Đức Quốc xã thiết lập…” – Tờ báo viết.

Các biên tập viên của bộ phận “Style & Substance editor” thuộc “The Wall Street Journal” cũng giải thích thêm về bối cảnh lịch sử: “Trong Thế chiến II nhà nước Ba Lan chỉ tồn tại trong hình thức hoạt động của chính phủ lưu vong ở London. Auschwitz thuộc Đức Quốc Xã sau khi Đức chiếm đóng Ba Lan và sát nhập vào lãnh thổ của họ trong tháng 10/1939″.

Ông Alex Storozynski, chủ tịch “Tổ chức Kosciuszko” [tổ chức mang tên Tadeusz Kosciuszko (4/2/1746 – 15/10/1817), vị tướng của Ba Lan và cả của Hoa Kỳ, người đã từng tham gia cuộc chiến tranh giành độc lập của Hoa Kỳ], nói rằng, người Ba Lan sẽ tiếp tục hành động cho đến khi các tờ báo và hãng tin còn lại “New York Times”, “Washington Post”, hãng tin AP và DPA của Đức, phải hiệu đính sai sót của mình.

Phản ứng của người Ba Lan làm tôi nhớ đến kết quả thu được của người Việt trên khắp thế giới hồi đầu tháng 3 năm nay. Trước áp lực của dư luận người Việt, National Graphic Society (NGS) đã chấp nhận điều chỉnh lại tên gọi trên bản đồ: quần đảo Hoàng Sa (Paracel Islands) thuộc Việt Nam và đang trong tranh chấp chứ không phải của Trung Quốc (China).

Sau sự kiện NGS, người Việt hải ngoại đã và đang có cuộc vận động các nhà phát hành đồ bản hàng đầu thế giới điều chỉnh tên gọi “South China Sea” (Biển Nam Trung Hoa) thành “Southeat Asia Sea” (Biển Đông Nam Á).

Từ kinh nghiệm của người Ba Lan cho thấy, để đạt được kết quả, phong trào vận động phải rất kiên trì, cương quyết và liên tục với sự tham gia rộng rãi của quần chúng trong cũng như ngoài nước. Ngoài ra không thể thiếu được yếu tố vận động tích cực của chính quyền.

Về quần đảo Hoàng Sa, phản ứng mạnh mẽ của công luận đã buộc chính phủ Việt Nam không thể không lên tiếng. Nhưng với các chiến dịch “nhạy cảm” khác, ví dụ như đổi tên biển nêu trên, thật khó có thể mong đợi từ Hà Nội một động thái tích cực nào thêm.

Có vẻ như “16 chữ vàng” đã biến thành chiếc vòng kim cô “Made in China” đang ngày càng xiết chặt thêm đầu não của Đảng Cộng sản Việt Nam.■

Nguồn:

1 – http://www.newsweek.pl/artykuly/sekcje/swiat/polacy-wygrali-z-wall-street-journal-w-sprawie-polskich-obozow-zaglady!,68705,1

2 – http://www.huffingtonpost.com/alex-storozynski/the-wall-street-journal-u_b_789327.html

Nguồn : Facebook Lê Diễn Đức

Tham nhũng đất đai căn bệnh bất trị và những tỷ phú xuất hiện bất ngờ trong …

Cơ chế hiện hành là khu đất trù mật cho tham nhũng sinh sôi. Danh từ “giao dịch nội gián” được dùng trong trường hợp nhà nước và nhà thầu bắt tay nhau dưới gầm bàn thỏa thuận việc đền bù cho người dân mất đất như thế nào để hai bên cùng có lợi đã và đang xảy ra trên khắp đất nước. Đáng lẽ bên được hưởng lợi là người dân, vì họ bị mất đất, thì hoàn toàn không được nhắc tới trong các “thỏa thuận nội gián” này…

*

Mặc Lâm, phóng viên RFA – Tham nhũng đất đai là vấn đề cốt lõi của xã hội Việt Nam hiện nay. Tuy cả nước đang bức xúc đối với những quyết định của nhà nước về việc trưng thu đất của người dân nhưng hệ thống chính quyền xem như không thể giải quyết tận gốc rễ của vấn đề sống còn này.

Nhóm chuyên gia của Ngân Hàng Thế Giới phối hợp với hai đại sứ quán Đan Mạch và Thụy Điển vừa đưa ra bảng tổng kết cho thấy tham nhũng đất đai tại Việt Nam hiện nay được xếp hạng đầu bảng trên thế giới. Bảng tổng kết ghi nhận hàng năm có khoảng 100 ngàn vụ tranh chấp đất đai xảy ra trên khắp hang cùng ngõ hẻm trên toàn quốc.

Những tỷ phú xuất hiện bất ngờ trong xã hội

RFA file Dân oan từ Tiền Giang lên tố cáo địa phương tham nhũng.

Hình ảnh tiêu cực này được các chuyên gia về đất đai cũng như các ngành có liên quan nhận định rằng không những sẽ gây thiệt hại cho nền kinh tế Việt nam về lâu về dài mà nó còn gây bất ổn xã hội, chia rẽ trong cộng đồng và hố ngăn cách giàu nghèo ngày một rộng hơn.

Trong hai thập niên qua, vấn đề đất đai trở thành nhức nhối cho nhiều gia đình Việt Nam khi hơn 9 triệu héc ta đất nông nghiệp chuyển sang mục đích dân cư trong đó tập trung xây dựng các khu thương mại phi nông nghiệp, cũng như các công trình công cộng.

Bên cạnh đó hơn 5 triệu héc ta đất bỏ hoang cũng được tận thu khai thác vào mục đích định cư người dân bị mất đất, hay vào các công trình thương mại. Từ thực tế này hầu hết các chuyên gia nghiên cứu về đất đai tại Việt Nam từ sau đổi mới đến nay đều cho rằng con số héc ta đất to lớn này đã rút ruột hàng triệu gia đình nông dân để bù vào các hạng mục vì người bị trưng thu đất không mấy ai nhận đựơc tiền đền bù xứng đáng, nhất là ở những vùng xa thị tứ.

Số tiền mà doanh nghiệp chấp nhận bỏ ra trong các dự án đền bù giải tỏa luôn có sự khống chế của các cấp chủ quản. Tiền đền bù không được vượt quá khung quy định đã đành, nhưng thường thì thấp hơn nhiều lần bởi mục đích của các quan chức địa phương luôn muốn kiếm ăn vào các dự án có đền bù giải tỏa.

Không có thống kê nào cho thấy có bao nhiêu cán bộ nhà đất khắp nước trở nên giàu có bất thường trong hàng chục năm qua. Cũng không ai biết chính xác số tiền tham nhũng từ các chữ ký trên những tờ giấy chủ quyền nhà lên đến bao nhiêu, tuy nhiên nhà nước có thể thống kê con số người bị mất đất tuy không chính xác nhưng sai số sẽ không lớn lắm.

Lý do là những người dân này hiện rõ trước mặt mọi người. Họ kêu oan khắp nơi và điển hình là vườn hoa Mai Xuân Thưởng tại Hà Nội trong nhiều năm qua đã trở thành nhà trọ của họ.

Dân oan EDEN kêu cứu trước UBND.TP HCM. RFA file

Cụm từ “dân oan khiếu kiện” do mất đất đang là ung nhọt của hệ thống xử lý khiếu nại khiếu tố đất đai hiện nay. Số người không được đền bù thỏa đáng lên tới hàng triệu người nhưng không phải ai cũng đâm đơn khởi kiện nhà nước. Nhiều gia đình biết rằng có khởi kiện thì cũng không tới đâu và họ lẳng lặng tìm cách sinh nhai hơn là theo đuổi một vụ kiện mà phần thua nắm chắc về mình.

Họ không khiếu nại nhưng lòng thì ấm ức, thời gian càng càng lâu, sự thù hận càng lớn. “Đồng tiền liền khúc ruột” là câu nói không bao giờ sai trong dân gian.

Là một chuyên gia về đất đai và cũng đựơc mời tham dự trong nhóm nghiên cứu, Giáo sư TS Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường thẳng thừng nhận xét rằng “Cán bộ làm quản lý đất đai có nhà cửa khang trang, mức sống cao hơn các cán bộ ở khu vực khác” Nhận xét này là thực tế, và thực tế tiêu cực này không thể được xem là bình thường vì nhà cửa được gọi là khang trang kia chính là tài sản của người dân bị mất.

TS Phạm Sỹ Liêm nguyên Thứ trưởng bộ Xây dựng cho biết kinh nghiệm của ông liên quan tới việc này:

-Tham nhũng đất đai liên quan đến luật đất đai và chính sách thu hồi đất. Trong chính sách thu hổi đất của Việt nam có một điều chúng tôi rất không tán thành là ngoài mục đích quốc gia, mục đích công cộng, còn thêm mục đích kinh tế, điều này trên thế giới chẳng có một nước nào thu hồi cưỡng bức mà để làm kinh tế cả. Kinh tế ở đây bao gồm làm khu công nghiệp cao gì đó.

Chẳng hạn như ở Hà nội này, có một miếng đất tốt ở cạnh Tràng Tiền Plaza gần đường Hai Bà Trưng, bây giờ thành phố tính chuyện lấy đi để xây tòa nhà kinh doanh. Đây là điều không đúng và bởi vì luật không rõ ràng. Thứ hai là giao đất cho một dự án tức là giao đất cho một người chủ cụ thể, người đó muốn có đất ấy thì tất nhiên cũng phải đút lót bôi trơn mới được.

Sự tha hóa của cán bộ ngày càng lộ liễu

Lực lượng của chính quyền Quảng Ngãi trước khi xông vào cưỡng chế đất. Photo courtesy of NguoiViet

Tham nhũng đất đai tại Việt nam được cho là kinh khủng chứ không còn nằm ở chỗ cao hay cao quá…bà Lê Hiền Đức, một người nổi tiếng vì giúp người dân khiếu kiện chống tham nhũng đất đai trong hơn hai chục năm qua tuyên bố thẳng thừng:

-Việc tham nhũng về đất đai nhà cửa, bất động sản tại Việt nam là một vấn đề kinh khủng.
Tôi phải dùng từ kinh khủng nhất! Tôi vừa ở Bangkok về thì đơn đã vứt đầy ở cửa nhà tôi rồi…nói như thế để biết rằng vần đề tham nhũng đất đai nhà cửa ở Việt Nam là một vần đề vô cùng kinh khủng. Nhiều nơi bà con nhân dân mình không biết nên gửi khiếu kiện đi nhiều nơi quá. Hôm nay tôi nhận một cái đơn cuối cùng gửi cho công dân Lê Hiền Đức nhưng ở trên thì bà con ghi tới 20 nơi, từ Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết tới đủ các cấp các ngành.

Cán bộ có quá nhiều quyền hạn trong việc ký giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng dất cho người dân là một động cơ làm cho tham nhũng có dịp hoành hành, làm trầm trọng thêm tình hình. Đại sứ Thụy Điển là ông Staffan Herstrom cho biết chỉ có 1% người khiếu nại là hài lòng, đìêu này tạo môi trường cho quan chức tham nhũng và do đó làm giảm niềm tin của người dân.

Nhà nước luôn xem việc giảm niềm tin của công chúng đối với họ là mối lo, thế nhưng người trực tiếp nhận hối lộ từ UBND Xã, cấp chính quyền thấp nhất thì hoàn toàn không thấy lo ngại việc này.

Việc cho phép một cấp hành chánh nhỏ nhất cũng có thể giây phần vào việc tham nhũng đất đai được TS Phạm Sỹ Liêm, nhận xét:

-Hiện nay trong các tham nhũng về đất thì tham nhũng ở cấp xã cấp thị trấn cũng khá nghiêm trọng. Nó không lớn nhưng trước mắt mọi người dân do đó nó gây bất bình rất lớn. Bởi vì thực ra quan chức ở xã muốn kiếm tiền thì cũng chỉ dựa vào đất mới có mà thôi, nó là khoảng tiền lớn chứ không làm cái gì qua đất đai cả. Thực ra cấp xã không có cái quyền ấy nhưng hiện nay họ cứ làm. Đấy cũng do chính sách mà ra.

Cơ chế hiện hành là khu đất trù mật cho tham nhũng sinh sôi. Danh từ “giao dịch nội gián” được dùng trong trường hợp nhà nước và nhà thầu bắt tay nhau dưới gầm bàn thỏa thuận việc đền bù cho người dân mất đất như thế nào để hai bên cùng có lợi đã và đang xảy ra trên khắp đất nước. Đáng lẽ bên được hưởng lợi là người dân, vì họ bị mất đất, thì hoàn toàn không được nhắc tới trong các “thỏa thuận nội gián” này.

Cán bộ nắm giữ các vị trí quan trọng trong hội đồng duyệt xét bồi thường cho người bị trưng thu cho nên giá tiền bồi thường mỗi mét vuông đất đều dưới tay sinh sát của họ. Trao quyền hạn quá lớn một cho một nhóm người là điều sai lầm từ nhiều năm nay nhưng nhà nước không thay đổi chính sách này.

Là người từng nhận nhiệm vụ cao trong chính phủ, TS Phạm Sỹ Liêm chia sẻ:

-Chúng tôi chủ trương chống tham nhũng bằng đổi mới, thay đổi thể chế chứ còn cứ chạy theo bắt, xét xử từng vụ một…thì cũng tốt cũng cần làm nhưng không biết đến bao giờ….
Người dân mất đất uất ức về những khoản chi phí phi pháp mà họ phải đóng chính thức hoặc lót tay cho các quan chức nhà nước mà họ biết chắc rằng số tiền này sẽ chui vào túi riêng của họ. Sự tha hóa của cán bộ ngày càng lộ liễu và không ai thấy họ bị trừng phạt, dù tài sản của những người này ngày một kết sù hơn.

Không biết những nghiên cứu, những cuộc hội thảo khoa học của các tổ chức uy tín có dóng lên được tiếng chuông gì trong hệ thống tham nhũng đất đai này hay không, nhưng trước mắt, trang pháp luật của các báo vẫn được người dân đọc nhiều nhất, không phải họ yêu chuộng luật pháp Việt Nam nhưng họ theo dõi xem đến bao giờ thì nhà nước mới ra được chính sách mới về bồi thường đất đai một cách công bằng và minh bạch cho họ.

GS NGUYỄN ĐĂNG HƯNG BÌNH LUẬN


Cảm nghĩ nhanh sau khi đọc bài

Giải mã "Lợi ích cốt lõi" và "đường lưỡi bò"

của Trung Quốc ở Biển đông

Nguyễn Đăng Hưng

Bài Giải mã "lợi ích cốt lõi" và "đường lưỡi bò" của Trung Quốc của tác giả Huỳnh Phan trên “Tuần Việt Nam” có nghi lại những trao đổi với Giáo sư Stein Tonnesson, Viện Nghiên cứu Hoà bình Oslo (Na Uy) – người tham gia cả hai cuộc hội thảo quốc tế về Biển Đông, được tổ chức tại Việt Nam. Đây là những ý kiến của một chuyên gia quan tâm đến Biển Đông một cách khá vô tư. GS Stein Tonnessson lại đồng tình với quan điểm của Giáo sư Leszek Buszynski cho rằng Trung Quốc thực sự cũng chưa biết mình muốn gì.

Blog Nguyễn Xuân Diện đã đăng lại bài này và KTS Trần Thanh Vân đã có những lời bình ngắn phía dưới mà tôi tâm đắc.

Thật vậy, nhà cầm quyền Trung Quốc hiện nay biết rất rõ việc họ làm: họ muốn bành trướng, muốn chiếm đoạt toàn bộ tài nguyên Biển Đông. Tại sao bảo rằng TQ "chưa biết họ thực sự muốn gì" khi chính họ đã có văn bản chính thức lên Liên Hiệp Quốc xác định đòi hỏi của họ… Ta biết ngày 7 tháng 5 năm 2009 phái đoàn thường trực của Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc đã gởi đến Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc một công văn (số CML/17/2009) trong đó có đính kèm bản đồ đường lưỡi bò mà ngôn ngữ quốc tế gọi là gọi là “đường chính đoạn đứt khúc” (nine-dotted-lines map) bao gồm gần 80% của tất cả Biển Đông và nói rằng đây là vùng chủ quyền không thể tranh cãi được của Trung Quốc.

Vấn đề đặt ra là ngoài những lời nói lấy được, họ không có một cơ sở nhỏ nào để biện minh cho lòng tham lam vô độ này. Trên thực tế các “học giả” đại diện cho thế lực bành trướng Trung Quốc đã rất phân vân không biết ăn nói làm sao trước công luận và lập trường phi lý này đã cô lập Trung Quốc trên trường quốc tế.

KTS Trần Thanh Vân đã phát biểu rất chính xác:“Những biểu hiện và những tuyên bố mập mờ, không mạch lạc của nhà cầm quyền TQ vừa rồi, không phải vì họ không biết họ muốn gì, mà vì họ lúng túng không biết cách lừa thế giới như thế nào ngoài thái độ ngang ngược trơ tráo và nói quanh”.

Và vì vậy chính bản thân họ cũng tự mâu thuẩn, tự chia rẽ vì hàng động phi lý không tiền khoán hậu này của lịch sử thế giới… Tôi chưa thấy thời đại nào mà một cường quốc lại đi đòi cả một vùng biển bao la trên 3 triệu km2 trở thành "lãnh thổ" của mình với cái tên kỳ quặc là "vùng nước lịch sử". Nói "Lợi ích cốt lõi" là sẳn sàng dùng vũ lực để chiếm đóng, là đòi sát nhập vào lãnh thổ của mình, chứ chẳng có gì khác. Thời thượng cỗ, Đế Quốc La Mã có khả năng và trên thực tế đã kiểm soát gần như tuyệt đối biển Địa Trung Hải nhưng Hoàng Đế La Mã nào có tuyên bố ý đồ ngông cuồng sát nhập biển này vào "lãnh thổ" của Đế Quốc La Mã?.

Tôi lại đồng ý với GS Stein Tonnessson khi ông bảo “Trung Quốc không khôn ngoan tí nào”. Vì quá hăng say với thành tích kinh tế, vì quá chủ quan về sự suy thoái của siêu cường quốc Hoa Kỳ, chính quyền Trung Quốc đã để lộ quá sớm cái đuôi con cáo thâm độc của mình.

Thái độ hung hăng của Trung Quốc tại biển Đông Nam Á đã làm cả thế giới thức tỉnh và Hoa kỳ đã thấy rõ nguy cơ. Đây chính là nguy cơ bậc nhất của thế kỷ 21, đây là sự trỗi dậy của một thứ phát xít mới với tất cả những ứng xử bạo tàn thâm độc mang màu sắc Á đông, phát xuất từ thời nhà Tần…

Đây cũng chính là sai lầm của ê kíp Hồ Cẩm Đào đã quên đi quá nhanh lời dặn dò của Đặng Tiểu Bình: “giấu mình chờ thời”.

Trước nguy cơ bị cả thế giới bao vây, ta thấy hiện nay TQ dịu giọng và trở lại với chính sách câu giờ.

Việt Nam hơn bao giờ hết nên lợi dụng thời cơ. Ngoài việc tìm bạn mới hùng cường còn phải trở về với đoàn kết dân tộc thực sự, mở rộng dân chủ, mưu cầu dân sinh, cải tổ chính trị, sửa đổi hiến pháp cho phù hợp với chính sách hoà nhập để phát triển… Làm bạn với các quốc gia hùng cường trước hết là phải xứng đáng với lòng tin cậy của họ, không ăn nói nước đôi, không hạ mình xin xỏ, không nhân nhượng quá mức, không khiếp sợ trước cường quyền, không bạc nhược trước ngang ngược mà phải tự lực, tự cường, tự trọng, lấy dân làm gốc …

Việt Nam cần phất cao ngọn cờ chính nghĩa, dựa vào pháp luật quốc tế, quyền bình đẳng các dân tộc, tinh thần tôn trọng quyền lợi chính đáng của các nước, lớn hay nhỏ… Đây chính là những giá trị đã giúp Việt Nam thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến gần đây.

Trung quốc cần thế giới văn minh chứ không có chuyện ngược lại, thế giới văn minh cần Trung quốc… Trung Quốc phải tôn trọng lẽ phải mới xứng đáng là đại cường quốc tương lai. Nhược bằng chủ quan hung hăng bành trướng thì sẽ chuốc lấy bại vong… Trung Quốc còn quá nhiều yếu điểm, xã hội quá nhiều bất công, các dân tộc bị quá nhiều áp bức… Mô hình phát triển ở Trung Quốc là một mô hình bất cân đối, bất ổn định, không hài hoà và mọi động thái hiếu chiến hung hăng của tham vọng bành trướng chỉ làm tăng cường nguy cơ sụp đổ..

Nhân nhượng vô nguyên tắc chỉ là bắt cầu cho những ngang nguợc khác rồi dẫn đến thảm hoạ mất nước! Chỉ có kẻ yếu hèn, bất lực, mất lòng tin mới hành động như vậy! Một dân tộc đã bao phen đánh thắng ngoại xâm hung hãn nhất của loài người trong những giai đoạn mà thế giới còn xa xôi phân cách thì trong giai đoạn hiện đại thế giới văn minh toàn cầu có luật lệ hẳn hoi, lẽ nào lại khiếp nhược khuất phục trước bọn cướp biển giết người?

Nguyễn Đăng Hưng,

Giáo sư Danh dự Thực thụ trường Đại học Liège, Bỉ

Nguon: Blog Nguyen Xuan Dien